Thứ Hai, 18 tháng 6, 2018

TỔNG-TÍCH HỢP LÝ THUYẾT- MỘT ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG CHO TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN

xin phép các GS, TS cho trang được copy bài Viết, làm tư liệu học thuật. 


GS. Tô Duy Hợp(*)
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 5 (156), tháng 5 - 2004
Ảnh chỉ mang tính chất minh họa
Ảnh chỉ mang tính chất minh họa

Gần đây, trong giới nghiên cứu triết học, ngày càng có nhiều tác giả quan tâm tới trào lưu tổng - tích hợp lý thuyết. Chẳng hạn, trong bài viết Triết học phương Tây hiện đại: một cái nhìn khái quát(1), Đỗ Minh Hợp đã ghi nhận các song đề lý thuyết trong triết học hiện đại:
Triết học chống tôn giáo « triết học tôn giáo
Triết học thực chứng « triết học hiện sinh; hay nói chung hơn là:
Triết học duy lý « triết học phi duy lý.
Điều quan trọng ở đây là, tác giả bài viết trên đã đưa ra nhận định rằng, vấn đề quan trọng bậc nhất đối với tư tưởng triết học hiện đại là xu thế hợp nhất, kết hợp hai cách tiếp cận cực đoan hoặc là duy nhận thức luận, hoặc là duy bản thể luận.
Nguyễn Hào Hải, qua cuốn sách Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại(2), cũng đi tới một nhận định tương tự rằng, bức tranh toàn cảnh triết học phương Tây hiện đại không có những trường phái cứng nhắc, cực đoan như trước đây mà linh hoạt, nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau, có vẻ như có sự dung hoà các quan điểm trái ngược nhau, nhưng lại vẫn có sự độc đáo, sắc bén. Đó là khuynh hướng đi tìm sự dung hoà giữa các quan điểm cực đoan duy, vị như chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa phi duy lý, chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa phản khoa học.
Cho đến nay, ít nhất đã có 2 phương thức tổng - tích hợp lý thuyết: một là, cải tiến, phát triển lý thuyết cũ bằng phương thức sửa đổi các nguyên lý hoặc bổ sung thêm quan điểm mới và hai là, xây dựng lý thuyết mới bằng phương thức tích hợp các lý thuyết vốn là đối lập, loại trừ lẫn nhau.
Cải tiến, phát triển lý thuyết cũ là phương thức thường xuyên diễn ra đối với mọi lý thuyết. Trong lịch sử triết học, đã từng diễn ra quá trình tổng hợp kiểu này. Chẳng hạn, chủ nghĩa duy vật đã trải qua các giai đoạn quan trọng từ duy vật thô sơ, mộc mạc đến duy vật siêu hình, máy móc và đến duy vật biện chứng. Phép biện chứng cũng vậy, nó đã trải qua các giai đoạn từ phép biện chứng ngây thơ, mộc mạc đến phép biện chứng duy tâm mà đỉnh cao là phép biện chứng trong triết học Hêgen và đến phép biện chứng duy vật mà đỉnh cao là phép biện chứng trong triết học Mác.
Trong triết học hiện đại, sự cải tiến  và phát triển của chủ nghĩa thực chứng là một thí dụ khá điển hình. Trường phái lý thuyết này đã trải qua các giai đoạn từ chủ nghĩa thực chứng cổ điển với các tác giả nổi tiếng như A.Côngtơ (A.Comte), G.S.Min (J.S.Mill), H.Spenxơ (H.Spencer); đến chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của R.Avênariút (R.Avenarius), E.Mác (E.Max), A.Poanhcarê (A.Poincaré), V.Trupơ (V.Schuppe), I.Remkơ (I.Remke); đến chủ nghĩa thực chứng mới với đóng góp của các trường phái như chủ nghĩa nguyên tử lôgíc của B.Rátxen (B.Russell), L.Vítgensơtêin (L.Wittgenstein), W.Crêgơ (W.Craig), Ph.P.Ramsêi (Ph.P.Ramsey), chủ nghĩa thực chứng lôgíc của M.Sơlic (M.Schlick), R.Cơragơ (R.Carrag), O.Nêôrát (O.Neurath), F.Vêixơmên (F.Vaisman), H.Phêighên (H.Feigl), F.Kápphơmơn (F.Kafman), H.Gân (H.Gan), F.Phơranh (F.Frank), triết học phân tích của L.Vítgensơtêin, G.C.Uyđơm (J.C.Wisdom), G.LAuxơtin (J.L.Austin), chủ nghĩa thực dụng lôgíc của W.W.Quinơ (W.W.Quine), R.B.Braitơoaitơ (R.B.Braithwaite), E.Nêghên (E.Nagel); đến chủ nghĩa hậu thực chứng với một số khuynh hướng mới nhất, đó là: chủ nghĩa duy lý phê phán của C.R.Pốppơ (K.R.Popper), L.Hempen (L.Hempel); phương pháp luận lịch sử khoa học của T.Lakatoxơ (T.Lakatas), T.Kun (T.Kuhn), S.Taulơmin (S.Toulmin), P.Phêirabớt (P.Feyerabeud), G.Agasi (J.Agassi) và chủ nghĩa thực tại khoa học hay siêu hình học mới của R.W.Sela (R.W. Sellars), M.Bangiơ (M.Bunge), C.A.Hukơ (C.A.Hooker), G.W.Cơruman (J.W.Coruman), G.G.Mát (J.J.C. Smart),…
Sự chuyển đổi từ chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc tới chủ nghĩa duy lý phê phán là thí dụ điển hình của quá trình vừa phê phán, vừa hoàn thiện cơ sở lý thuyết cũ để có lý thuyết mới. Như đã biết, chủ nghĩa thực chứng mới - đỉnh cao của chủ nghĩa thực chứng – được thiết lập trên hệ thống gồm 4 nguyên lý:
1. Nguyên lý chứng thực.
2. Nguyên lý quy giản lý thuyết về thực nghiệm.
3. Nguyên lý quy ước.
4. Nguyên lý chủ nghĩa vật lý.
Hệ thống bốn nguyên lý này vận hành khá tốt đối với khoa học trong thời kỳ tích luỹ kinh nghiệm. Nhưng nó đã rơi vào khủng hoảng, bế tắc trước tình huống cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ. Lý do căn bản là vì nó không đủ biện chứng.
Với chủ thuyết duy lý phê phán, Pốppơ đã thay thế hệ thống quan điểm thực chứng mới bằng hệ thống quan điểm hậu thực chứng; trong đó, điều quan trọng là bổ sung thêm vào sự hợp lý của phương pháp tiếp cận phản thực chứng. Nó được thể hiện rõ nhất ở 2 nguyên lý mới, đó là:
1. Nguyên lý phủ bác.
2. Nguyên lý phi quy giản.
C.Pốppơ và những người theo chủ thuyết duy lý phê phán cho rằng, tính khoa học hay chân lý khách quan đương nhiên phải được chứng thực, nghĩa là phải được kiểm tra bằng thực nghiệm nói riêng, thực tiễn nói chung. Nhưng chứng thực trên thực tế là một quá trình vô hạn, vì không chắc chắn rằng thực nghiệm mới nói riêng, thực tiễn mới nói chung lúc nào cũng xác nhận chân lý cũ. Trong khi đó, chỉ cần một phản thí dụ là lập tức tính tuyệt đối, phổ biến của chân lý cũ đã bị loại trừ. Do đó, phủ bác căn bản hơn là chứng thực, nó tạo ra động lực khắc phục sự trì trệ, giáo điều trong khoa học. Chân lý mới ra đời từ phủ bác chân lý cũ. Nếu như vậy thì không thể quy giản lý thuyết về thực nghiệm, hoặc quy giản lý luận về thực tiễn được. Bởi vì, lý thuyết (lý luận) có tư cách độc lập với thực nghiệm (thực tiễn). Hơn thế nữa, lý thuyết (lý luận) còn chỉ đạo thực nghiệm (thực tiễn). Đó là thực chất của nguyên lý phi quy giản lý thuyết về thực nghiệm.
Hoá ra, quan hệ lý thuyết - thực nghiệm, lý luận - thực tiễn là một nan đề (vấn đề nan giải). Nan đề này thực chất là một song đề, một antinômi - vấn đề kiểu Cantơ(3). Đây là nan đề nhận thức luận. Nhưng, như đã biết, việc giải quyết các nan đề nhận thức luận không thoát khỏi nan đề cơ bản của triết học, đó là song đề tư duy - tồn tại, ý thức - vật chất, chủ quan - khách quan.
Trường phái thực chứng mới những tưởng thoát khỏi nan đề cơ bản của triết học, họ chủ trương đường lối thứ ba - không duy vật, không duy tâm. Nhưng rốt cuộc, họ vẫn phải dao động giữa hai thái cực đó.
Phương thức tổng - tích hợp các lý thuyết vốn đối lập, loại trừ lẫn nhau để tạo ra lý thuyết mới cũng đã từng diễn ra trong lịch sử triết học. Điển hình nhất là sự ra đời của triết học mácxít. Đứng trước sự đụng độ, đối đầu giữa hai lý thuyết cực đoan, một bên là chủ nghĩa duy tâm biện chứng của G.W.F. Hêgen, còn bên đối lập là chủ nghĩa duy vật siêu hình của L.Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã lựa chọn “hạt nhân hợp lý” trong chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hêgen - phép biện chứng và “hạt nhân hợp lý” trong chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc - chủ nghĩa duy vật để tiến hành tổng - tích hợp và đạt tới chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngày nay, trong triết học đương đại, những nỗ lực tổng - tích hợp hai chủ thuyết thực chứng và phản thực chứng vốn đối lập, loại trừ nhau, chẳng hạn hậu thực chứng và hậu hiện sinh, là những bằng chứng mới cho khả năng hoá giải các nan đề lý thuyết kể từ các nan đề  lý thuyết như:
1/ Vật chất - Ý thức; 2/ Tồn tại - Tư duy; 3/ Khách quan - Chủ quan; 4/ Cảm tính - Lý tính; 5/ Kinh nghiệm - Lý thuyết; 6/ Thực tiễn - Lý luận; v.v. đến các nan đề lý thuyết hiện đại, như 1/ Lý tính - Phi lý tính; 2/ Nhân bản - Phi nhân bản; 3/ Khoa học - Phản khoa học; v.v..
Khả năng hoá giải đó là những thành tựu mới của lôgíc học. Như đã biết, bản thân lôgíc học - công cụ của tư duy đúng đắn cũng rơi vào nan đề lý thuyết. Nan đề cơ bản nhất là sự đối lập, loại trừ nhau giữa hai khung mẫu (Paradigm), hệ chuẩn: lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng. Khung mẫu lôgíc hình thức do Arixtốt đặt nền móng, còn khuôn mẫu lôgíc biện chứng do Hêgen đặt cơ sở. Hệ nguyên lý, quy luật cơ bản của hai khung mẫu lôgíc cực đoan này có thể được đối chiếu, so sánh như sau:

Lôgíc hình thức (A)                        Lôgíc biện chứng (H)

1. Nguyên lý cô lập       
2. Nguyên lý bất biến    
3. Quy luật đồng nhất

4. Quy luật phi mâu thuẫn                   
5. Quy luật bài trung

1. Nguyên lý liên hệ
2. Nguyên lý biến hoá
3.Quy luật mâu thuẫn biện chứng
4. Quy luật lượng đổi dẫn tới chất đổi và ngược lại
5. Quy luật phủ định của phủ định

Từ hai hệ nguyên lý, quy luật cơ bản này phát triển lên, sẽ có hai hệ quy tắc, lược đồ lôgíc trái ngược nhau. Chẳng hạn, thao tác phủ định trong lôgíc hình thức (A) cho ta kết quả phủ định của phủ định bằng khẳng định ban đầu; trong khi đó, đối với lôgíc biện chứng (H), phủ định của phủ định không bằng khẳng định ban đầu. Nói một cách hình ảnh, phủ định của phủ định trong lôgíc hình thức (A) tạo ra vòng tuần hoàn khép kín; trong khi đó, phủ định của phủ định trong lôgíc biện chứng (H) tạo ra vòng xoáy trôn ốc, có vẻ như quay lại trạng thái ban đầu, nhưng ở trình độ cao hơn, theo chiều hướng tiến bộ. Lược đồ lôgíc suy diễn theo lôgíc hình thức (A) dựa trên tam đoạn luận (xuất phát từ hai tiền đề tất yếu suy ra một kết luận hợp lôgíc). Trong khi đó, lược đồ lôgíc suy diễn theo lôgíc biện chứng (H) lại dựa trên tam đoạn thức: chính đề - phản đề - hợp đề.
Sự phát triển của lôgíc học hiện đại diễn ra theo cả hai khuynh hướng: một là, hoàn thiện các khung mẫu lôgíc cổ điển và hai là, tổng - tích hợp lý thuyết để có lý thuyết lôgíc mới.
Thành tựu nổi bật nhất của quá trình hoàn thiện khung mẫu lôgíc cổ điển là giai đoạn lôgíc toán của lôgíc hình thức. Bằng phương pháp toán học hoá lôgíc hình  thức (A), lôgíc hình thức trở thành lôgíc toán. Lôgíc toán không thay đổi hệ nguyên lý và quy luật cơ bản của lôgíc hình thức (A), mà chỉ thay đổi ngôn ngữ (từ ngôn ngữ tự nhiên sang ngôn ngữ ký hiệu) và thay đổi cách thức lập luận (từ lập luận tự nhiên sang lập luận dựa trên các phép toán, như hàm chân lý, đại số lôgíc, phép tính lôgíc tiên đề hoá…)
Nhằm khắc phục những hạn chế cơ bản của lôgíc hình thức (A), người ta đã tiến hành biện chứng hoá lôgíc hình thức. Kết quả là đã xuất hiện nhiều khuynh hướng lôgíc hiện đại, phi cổ điển. Đó là:
Lôgíc đa trị.
Lôgíc mờ.
Lôgíc tình thái.
Lôgíc kiến thiết.
Lôgíc đa trị thay thế nguyên lý lưỡng trị chân lý bằng nguyên lý đa trị chân lý, trong đó lôgíc lưỡng trị chân lý chỉ là trường hợp đặc biệt, tới hạn. Lôgíc mờ thay thế nguyên lý cô lập bằng nguyên lý liên hệ, liên thông, liên kết; trong đó, cô lập chỉ là trường hợp đặc biệt, tới hạn. Lôgíc tình thái thay thế nguyên lý nhân - quả giản đơn bằng nguyên lý nhân - quả biện chứng, rằng không chỉ một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, mà còn có nhiều biểu hiện khác nữa do các quan hệ tất yếu - ngẫu nhiên, hiện thực - khả năng can thiệp vào tương tác nhân quả. Lôgíc kiến thiết thì thay thế nguyên lý (quy luật) bài trung trừu tượng bằng nguyên lý (quy luật) bài trung cụ thể.
Các khuynh hướng lôgíc phi cổ điển này, một mặt, có thể coi như kết quả biện chứng hoá lôgíc hình thức; mặt khác, cũng có thể coi như kết quả hình thức hoá lôgíc biện chứng. Do đó, chúng là sản phẩm  của tổng - tích hợp hai khung mẫu lôgíc A và H vốn đối lập, loại trừ nhau trong lôgíc học truyền thống.
Thiếu sót cơ bản của khung mẫu lôgíc hình thức (A) là giản đơn, dễ bị tuyệt đối hoá để trở thành siêu hình, phản biện chứng, nghĩa là phi thực tế. Còn hạn chế cơ bản của khung mẫu lôgíc biện chứng (H) là không chỉ ở chủ nghĩa duy tâm khách quan trong lập trường triết học của Hêgen mà còn ở chỗ, ngay cả sau khi đã lọc bỏ chủ nghĩa duy tâm khách quan, nó vẫn quá thiên lệch về phía đề cao nguyên lý liên hệ và biến hoá. Nói một cách khái quát, nó thiếu quan điểm về toàn thể  biện chứng (Holistic Dialecties) - quan điểm phù hợp nhất với thực tế.
Như đã biết, lược đồ thao tác lôgíc cơ bản của lôgíc biện chứng (H) là  tam đoạn thức: 1. Chính đề ® 2. Phản đề ® 3. Hợp đề. Lược đồ này quán triệt hai nguyên lý và ba quy luật cơ bản của lôgíc biện chứng (H). Nhưng hệ thống nguyên lý và quy luật lôgíc biện chứng (H) này có nhiều thiếu sót và bất cập. Một là, nó chỉ ghi nhận mâu thuẫn như là hạt nhân của phép biện chứng, chỉ chú ý đến một loại mâu thuẫn là mâu thuẫn đối kháng giữa chính đề và phản đề. Hai là, nó không làm rõ nguyên đề như một khối thống nhất, bất phân trước khi diễn ra phân hoá và mâu thuẫn. Ba là, hợp đề bị đồng nhất với tích hợp tiến bộ; hơn nữa, bị dừng lại tuyệt đối, nghĩa là rốt cuộc, lại rơi vào siêu hình, phản biện chứng.
Nhằm khắc phục những hạn chế căn bản đó trong quan niệm về tam đoạn thức biện chứng của Hêgen, ta phải cải tiến để có tam đoạn thức mới, thể hiện quan điểm toàn thể biện chứng. Nó có dạng hình thức hoá sau đây:
… (1) Nguyên đề… (2) Phân đề… (3) Hợp đề…
Trong tam đoạn thức cải tiến này, ta cần lưu ý mấy điều quan trọng: thứ nhất, nguyên đề chính là hợp đề (nguyên hợp) của vòng khâu trước, còn hợp đề chính là nguyên đề (thống hợp) của vòng khâu sau; nghĩa là, quá trình biện chứng là vô hạn, mà (nguyên đề – phản đề – hợp đề) chỉ là một vòng khâu. Thứ hai, phân đề không đồng nhất với phân đôi mâu thuẫn, không đồng nhất với mâu thuẫn đối kháng dưới dạng chính đề - phản đề, vì còn có nhiều dạng khác đối kháng, khác mâu thuẫn. Biện chứng là biến hoá, biến hoá là phân hoá, tức là đa dạng hoá, mà mâu thuẫn chỉ là hạt nhân, đối kháng chỉ là trường hợp đặc biệt. Thứ ba, hợp đề không đồng nhất với tích hợp tiến bộ, bởi tích hợp tiến bộ chỉ là một xu hướng, một kết quả tiến hoá chứ không phải là duy nhất. Tích hợp tiến bộ là duy nhất chỉ có trong huyền thoại hoặc ước mơ hão huyền chứ không có trong thực tế. Tiến hoá trong thực tế có nhiều khả năng, không loại trừ khả năng suy thoái, thậm chí bị huỷ diệt.
Cơ sở lý thuyết của quan điểm toàn thể biện chứng ít nhất cũng phải dựa trên các nguyên lý và quy luật cơ bản sau đây:
1. Nguyên lý tương đối.
2. Nguyên lý bổ sung.
3. Nguyên lý thống nhất đa dạng.
4. Nguyên lý (quy luật) mâu thuẫn biện chứng.
5. Nguyên lý (quy luật) nhân quả.
6. Nguyên lý (quy luật) lượng đổi dẫn tới chất đổi và ngược lại.
7. Nguyên lý (quy luật) phủ định biện chứng.
Những nguyên lý và quy luật cơ bản nêu trên là kết quả tổng - tích hợp hạt nhân hợp lý của các lý thuyết hiện có, đặc biệt là các lý thuyết tương phản, vốn loại trừ lẫn nhau.
Nguyên lý tương đối ghi nhận một thực tế là mọi sự vật, hiện tượng đều có tính tương đối, chẳng hạn quan niệm  của thuyết âm - dương trong kinh dịch: trong âm có dương, trong dương có âm. Nguyên lý tương đối là thành quả vĩ đại của triết học và khoa học, từ tương đối vật lý đến tương đối tâm lý và đến tương đối văn hoá. Trong lôgíc học cũng vậy, mối liên hệ đương nhiên là có tính tương đối, nhưng cô lập cũng chỉ là tương đối, không có cô lập tuyệt đối.
Nguyên lý bổ sung cũng là một thành tựu quan trọng khác của triết học và khoa học. Nó không chỉ thừa nhận một thực tế là mọi sự vật, hiện tượng đều có lưỡng tính (tính hai mặt), mà còn thừa nhận sự đa dạng về thuộc tính và quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Đa dạng này vừa là hiện thực, vừa là tiềm  năng; nghĩa là, về nguyên tắc, có tính vô hạn. Bổ sung không chỉ là hiện thực (đương đại) mà còn là lịch đại, nghĩa là tiếp diễn mãi theo trục thời gian từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Nguyên lý thống nhất đa dạng thừa nhận một thực tế là, mặc dù các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quan hệ vô cùng đa dạng nhưng vẫn có sự thống nhất nào đó. Đa dạng mà thống nhất, thống nhất trong đa dạng - đó là biện chứng của tồn tại và cả của biến đổi, phát triển.
Nguyên lý (quy luật) mâu thuẫn biện chứng thừa nhận mâu thuẫn biện chứng (tức là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập) vừa là cơ sở của tồn tại, vừa là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển.
Nguyên lý (quy luật) nhân quả ghi nhận mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả: một là, có tính tương đối; hai là, có tính bổ sung; ba là, có tính thống nhất đa dạng và bốn là, một cặp mâu thuẫn biện chứng. Nó thừa nhận mọi sự vật, hiện tượng đều là kết quả của những nguyên nhân nhất định nào đó; đồng thời, chúng lại trở thành nguyên nhân gây ra những kết quả nhất định khác. Chuỗi nhân quả là vô hạn và là vô hạn về nguyên tắc, nhưng ở mỗi một vòng khâu thì nhân quả lại có tính hữu hạn, một tính hữu hạn tương đối.
Nguyên lý (quy luật) lượng đổi dẫn tới chất đổi và ngược lại ghi nhận phương thức cơ bản của biến hoá biện chứng, đó là sự chuyển hoá qua lại giữa số lượng và chất lượng. Số lượng tăng/giảm tất yếu dẫn tới sự thay đổi chất lượng (có thể tích cực hoặc tiêu cực); ngược lại, chất lượng thay đổi tất yếu dẫn tới sự tăng/giảm số lượng. Sự chuyển hoá qua lại giữa số lượng và chất lượng là một quá trình có thể từ từ tiến triển, có thể đột biến, cách mạng.
Nguyên lý (quy luật) phủ định biện chứng ghi nhận chiều hướng và kết quả của biến hoá biện chứng về nguyên tắc là có tính đa dạng: có thể là phủ định có kế thừa hạt nhân hợp lý/không hợp lý của cái bị phủ định theo nghĩa đổi mới; hoặc cũng có thể là phủ định theo phương thức xoá bỏ - thay thế và làm xuất hiện cái mới hoàn toàn. Do vậy, phủ định của phủ định (phủ định liên tiếp hai lần) không thể lặp lại nguyên xi khẳng định ban đầu. Nếu theo kiểu thứ nhất (phủ định có kế thừa) thì phủ định của phủ định sẽ tích luỹ hạt nhân hợp lý/không hợp lý  của khẳng định ban đầu. Còn theo kiểu thứ hai (phủ định theo phương thức xoá bỏ - thay thế) thì có hai khả năng: một là, có thể dường như quay lại cái khẳng định ban đầu nhưng ở trình độ cao hơn (tiến bộ); hai là, rất có thể vẫn dường như quay lại cái khẳng định ban đầu nhưng ở trình độ thấp hơn (thoái bộ).
Vận dụng quan điểm toàn thể biện chứng với hệ nguyên lý và quy luật cơ bản nêu trên để giải quyết vấn đề song đề lý thuyết (tức là antinômi - vấn đề kiểu Cantơ), ta có thể xây dựng lược đồ lôgíc hoá giải các nan đề lý thuyết dưới dạng toàn đồ biện chứng (Dialectical Hologram). Toàn đồ biện chứng hoá giải song đề lý thuyết là toàn đồ biện chứng theo tam đoạn thức sau đây:
1. Chính đề: hoặc là… hoặc là…
2. Phản đề: vừa là… vừa là…
3. Hợp đề: vấn đề không phải thế, mà là…
Tổng - tích hợp toàn thể biện chứng có phân biệt (hoặc/và không phân biệt), điều chỉnh (hoặc/và không điều chỉnh), thay đổi (hoặc/và không thay đổi) khinh - trọng(4) mà dưới đây được gọi tắt là toàn thể biện chứng khinh - trọng.
Quan điểm toàn thể biện chứng khinh - trọng (hay toàn đồ biện chứng khinh - trọng) là thành quả mới của trào lưu tổng - tích hợp lý thuyết trong triết học và khoa học đương đại. Nó là cơ sở lý thuyết của triết học mới. Theo tinh thần phủ định biện chứng có kế thừa hạt nhân hợp lý của những cái bị phủ định, nó không loại trừ hạt nhân hợp lý của các triết thuyết hiện có. Hơn thế nữa, theo nguyên lý tương ứng, nó coi các triết thuyết có lập trường cực đoan, duy vị như là những trường hợp đặc biệt, tới hạn. Ngay cả quan điểm chiết trung trong triết học cũng có hạt nhân hợp lý của nó.
- Thế ứng xử phân biệt khinh- trọng là hợp lý. Nhưng nếu cố chấp khinh - trọng thì tất yếu sẽ rơi vào cực đoan, duy vị. Coi trọng vật chất quá mức, quá lâu thành duy vật. Trái lại, coi trọng phi vật chất, coi trọng ý thức quá đáng, quá lâu thành duy tâm. Duy lý là do tuyệt đối hoá vị trí, vai trò của lý tính; trái lại, duy cảm là do tuyệt đối hoá vị trí, vai trò của cảm tính.
- Nếu có bình quân khinh - trọng thì có nghĩa là chiết trung. Có thể coi nhị nguyên luận là một kiểu chiết trung nhằm thoát ra khỏi nguyên tắc bài trung của thể đối lập, loại trừ nhau giữa các nhất nguyên luận duy vật hoặc là duy tâm, duy lý hoặc là duy cảm .v.v…
- Nếu không phân biệt khinh - trọng theo kiểu ứng xử “ba phải” thì có hợp lý không? “Ba phải” trong triết học cũng có hạt nhân hợp lý của nó. Nó hợp lý ở chỗ vừa có phân biệt, vừa không phân biệt khinh - trọng. Tuy thực tế, có những trường hợp, những trạng thái của sự vật, hiện tượng hỗn loạn, vô trật tự, nghĩa là không có phân biệt khinh - trọng. Cũng không loại trừ trường hợp, trạng thái của sự vật, hiện tượng thuần nhất, đồng nhất, chưa có hoặc không cần có phân biệt khinh - trọng. Như vậy, “ba phải” thực chất là “tuỳ cơ ứng biến”, một cách ứng xử khá linh hoạt, không cố chấp.
Nhận thấy được hạt nhân hợp lý của các lý thuyết khác nhau, đặc biệt là của các lý thuyết đối lập là điều rất quan trọng. Bởi vì, điều đó giúp ta linh hoạt, không cố chấp trong vận dụng thực tế. Có thể thấy, đây là một nguyên tắc quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cho rằng: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp với điều kiện của nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm  chung đó sao. Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội…
Văn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại… Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam”(5).
Như vậy, tổng - tích hợp lý thuyết có hai cấp độ lôgíc: một là, lôgíc ứng dụng lý thuyết và hai là, lôgíc nghiên cứu lý thuyết. Trong vận dụng lý thuyết, tuỳ theo đặc điểm đối tượng cụ thể, người ta có thể và cần phải tổng - tích hợp hạt nhân hợp lý của các lý thuyết khác nhau, thậm chí đối lập nhau để có được toàn diện biện chứng đối tượng. Còn trong kiến tạo, xây dựng lý thuyết mới,người ta cũng có thể và cần phải tổng - tích hợp hạt nhân hợp lý của các lý thuyết khác nhau, thậm chí đối lập, loại trừ nhau để đạt tới toàn đồ biện chứng có phân biệt (hoặc/và không phân biệt), điều chỉnh (hoặc/và không điều chỉnh), thay đổi (hoặc/và không thay đổi) khinh - trọng.
Tiến trình phát triển của tư duy lý luận hiện đại đang tiếp diễn theo phương hướng tiến bộ đó.



(*) Giáo sư, tiến sĩ triết học, Viện Xã hội học.
(1)  Xem: Tạp chí Triết học,  số 1,  2000, tr.46-50.
(2)  Xem, Nguyễn Hào Hải. Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại. Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2001.
(3) Antinômi - vấn đề kiểu Cantơ là nan đề lý thuyết bất khả giải theo quan điểm bất khả tri luận của Cantơ, nhưng có thể hoá giải được bằng lôgíc biện chứng.
(4) Khinh ở đây có nghĩa là thứ yếu, coi nhẹ, coi thường, hạ thấp
  Trọng có nghĩa là chủ yếu, đề cao, nhấn mạnh, ưu tiên
(5) Dẫn theo: Trần Dân Tiên. Hồ Chí Minh truyện  (Trương Niệm Thúc dịch). Nxb Tam Liên, Thượng Hải, 1949, tr.91.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét