Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2018

DÂN CHỦ HÓA: MỘT LÝ LUẬN ĐƠN THUẦN

TÁC GIẢ: PHẠM MINH TRÍ( CN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ)




Dân chủ hóa là gì? và yếu tố nào để thực hiện nó?

- Dân chủ hóa tức là sự chuyển đổi mô hình chính trị, chế độ chính trị từ chế độ độc tài, độc quyền sang một chế độ dân chủ hơn. 
- Mục đích duy nhất của dân chủ hóa đó là hướng đến việc xác thực dân chủ, công bằng xã hội, và người dân tham gia đóng góp ý kiến vào trong chính trị và đời sống xã hội và kiểm soát quyền lực một cách tuyệt đối. 
Có nhiều yếu tố để tiến hành dân chủ hóa một cách thành công:
+ Sự giàu có: tốc độ GDP của cả nước tăng cao hơn trước.
+ Nền giáo dục được cải cách tốt.
+ Quản lý tài nguyên quốc gia và đảm bảo giải quyết các xung đột bởi tài nguyên quốc gia.
+Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường.
+Tạo một cân đối trong “ công bằng xã hội”.
+ Kích thích xã hội dân sự và văn hóa dân sự.
+Cân bằng trong phát triển dân số
+Phát huy quyền tự quyết tối các dân tộc
+Bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
+Chấm dứt các xung đột ở các quốc gia và tạo lập hòa bình chung.
+Đảm bảo quyền con người, quyền công dân đích thực.
Kết quả hình ảnh cho dân chủ hóa

- Một xã hội như thế đang thể hiện một bản chất ưu việt của quần chúng nhân dân, đương nhiên là rất chí lý nếu nói về phương diện " quyền lực thuộc về nhân dân". Các nhà tư sản hiện đại đang phô trương một kiểu lý luận dân làm chủ, nhưng rồi trong quốc gia ấy chưa hề có một thực tiễn nào mang đậm tính chất dân chủ hóa. 
Dân chủ xuất hiện từ khi giai cấp hình thành, vì tính giai cấp là tính chất đặc trưng của dân chủ, hình thái cộng sản nguyên thủy đã có dân chủ, nhưng mà thời đại này chưa có sự phân chia giai cấp cho nên dân chủ chỉ là " dân chủ phi chính trị". Thời Kỳ chiếm hữu nô lệ, khi có sự phân chia giai cấp giữa chủ nô và nô lệ mà có sự phân chia giai cấp, và các giai cấp đấu tranh để giành chính quyền, từ đó nhà nước ra đời, là sản phẩm của các cuộc đấu tranh giai cấp. Nhà nước dân chủ Aten cổ đại ra đời và phát triển làm thay đổi bản chất ủa dân chủ, ngày càng hoàn thiện tính dân chủ của một nhà nước dân chủ. 
Thời kỳ phong kiến, nhà nước phương đông thì xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền và ở phương tây thì xây dựng nhà nước phân quyền cát cứ, một thời kỳ phong kiến lâu dài, không có dân chủ, vì dân chủ chỉ dành cho một người , đó là hoàng đế(vua).
Nhưng ở Việt Nam, thời nhà Trần từng diễn ra hội nghị Diên Hồng năm 1284, từng tập hợp các quan chức chính quyền từ TW đến địa phương để họp một cuộc họp quyết định sự tồn vong của giang sơn xã tắc, và đây là một trong những hình thức dân chủ đại diện ở Việt Nam đầu tiên trong thời phong kiến. 
Đến thời kỳ cách mạng tư sản giành chính quyền về tay giai cấp tư sản, một nền dân chủ tư sản xuất hiện, và được coi là nền dân chủ hình thức và cắt xén, khi mà chế độ dân chủ trong tay của các nước siêu cường và đế quốc, dân chủ của giai cấp tư sản chứ không phải là của tất cả các giai cấp. 
Dưới ánh sáng của cuộc cách mạng tháng 10-1917, nền dân chủ XHCN là nền dân chủ của giai cấp công nhân, nền dân chủ của toàn dân và thống nhất với ý chí của nhân dân. 
Trong mười đề cương của chính quyền xô-viết, Lê-nin đã nêu ra những bản chất của nền dân chủ tự do, đó là:
- Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
- Tự do chính trị cho mọi công dân.
- Quyết định theo đa số của mọi công dân.
- Quyết định bằng hình thức biểu quyết, thực chất là hình thức dân chủ thuần túy. 
Kết quả hình ảnh cho dân chủ


Dân chủ hóa ở Việt Nam, chỉ có lý luận của các nhà tư sản
- Dân chủ hóa ở Việt Nam một cách nhìn rời rạc của các nhà tư sản hiện đại, từ các chính kiến bất đồng quan điểm muốn lợi dụng chiêu bài dân chủ hóa để tuyên truyền lý luận theo kiểu tư bản, lý luận dân chủ hóa ấy đã trùng lập với lý luận của Lê-nin về dân chủ, lý luận dân chủ trong xã hội chủ nghĩa chính là những tự do, và bình đẳng ấy, chứ không phải xa rời bản chất tự do, bình đẳng. Thể hiện việc xây dựng nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang xây dựng một nhà nước dân chủ hóa từng bước, thực hiện việc kiểm soát quyền lực, thực hiện nền dân chủ hóa trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc Hội và HĐND các cấp. 
Điều 6, Hiến Pháp 2013, ghi nhận:
" Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc Hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của nhà nước".
Điều 7, khoản 1, hiến pháp 2013, ghi nhận:
"Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín."
Điều 8, khoản 2, Hiến Pháp 2013, ghi nhận
" Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền". 
Như vậy, quá trình tiến hành dân chủ hóa ở Việt nam đang được phát huy một cách tích cực, thể hiện ở" dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát". Dân chủ hóa từng bước, thông qua các hình thức dân chủ khác nhau mà vận dụng thực tiễn. Cần phân biệt khái niệm dân chủ hóa với hình thức lợi dụng dân chủ, nhân quyền để đả kích, chống phá cách mạng Việt Nam hình thức đó không gọi là dân chủ hóa. Dân chủ hóa không phải chỉ ở chính trị, mà dân chủ hóa còn phải hoàn thiện ở mặt kinh tế, văn hóa, đời sống xã hội, có như thế mới thực sự phát huy có hiệu quả quá trình dân chủ hóa toàn diện, ở Việt Nam cũng không phải sử dụng " dân chủ hóa" mà là " phát huy tối đa tính dân chủ", bởi vì dân chủ xã hội chủ nghĩa ngay trong đặc điểm của nó đã mang bản chất của dân chủ hóa mà các nhà khoa học chính trị nêu ra, và nó chỉ hướng đến các nước tư bản trong quá trình tiến lên XHCN. Còn các quốc gia đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, đã và đang thực hiện hoàn thành những đặc điểm của nền dân chủ XHCN và sẽ tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa vào trong đời sống xã hội.




QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TÁC GIẢ: PHẠM MINH TRÍ( CN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ)




Quyền con người là một giá trị phổ quát và là vấn đề có tính lịch sử dài lâu cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Quyền con người có nội dung rất phong phú, có tính chất nhạy cảm, phức tạp. Và càng phức tạp hơn khi nó gắn với các chế độ chính trị khác nhau. Do các lát cắt tiếp cận đa dạng, vấn đề quyền con người thường có những nhận thức khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề quyền con người xuất phát từ truyền thống dân tộc Việt Nam và từ bối cảnh thực tiễn cụ thể của đất nước, đồng thời kế thừa có chọn lọc những nội dung hợp lý của tư tưởng nhân quyền hiện đại. Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra những luận điểm mới, sâu sắc và toàn diện về quyền con người, phù hợp với đặc điểm của tình hình cụ thể ở Việt Nam và thời đại mới.
Từ đặc điểm của dân tộc đang bị mất độc lập, bị áp bức bóc lột nặng nề dưới chế độ đế quốc thực dân và địa chủ phong kiến tay sai, mọi quyền sống của con người cũng như quyền dân tộc đều bị xóa bỏ. Vì vậy, vấn đề quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thông qua cuộc cách mạng để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của thực tiễn Việt Nam đặt ra, cách mạng cần giải quyết, có giải quyết được yêu cầu này thì quyền con người mới được bảo đảm.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn từ lịch sử dân tộc và thực tiễn của đất nước, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của phương Đông cũng như phương Tây. Đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền con người.

Kết quả hình ảnh cho QUYỀN con người của Hồ Chí Minh

Một là, Hồ Chí Minh quan niệm quyền của mỗi người gắn chặt và không tách rời với quyền của dân tộc, do đó Người đã đấu tranh đòi quyền con người cho cả dân tộc, quyền tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Không dừng lại ở đó, Người đã đòi quyền cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức bóc lột trên thế giới. Đây là sự phát triển, khái quát cao, đem lại những nội dung mới về quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh thời đại mới. Điều này đã được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Người trực tiếp soạn thảo và tuyên đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Hai là, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh đòi quyền cho con người, mà Người còn nhấn mạnh tới quyền làm người. Bởi vì, quyền con người không chỉ cần ăn, mặc, ở, đi lại để tồn tại mà còn vươn lên trên cái tồn tại để hoàn thiện và phát triển bản thân. Đó chính là quyền học tập, sáng tạo, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do, quyền dân sự, quyền về chính trị, kinh tế - văn hóa xã hội, cũng như quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội như: quyền các dân tộc thiểu số, quyền phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ để họ hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Ba là, Hồ Chí Minh triệt để thực hiện giữa nói và làm. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, giữa lý luận và thực tiễn, giữa động cơ và hiệu quả đã trở thành đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh so các nhà tư tưởng, các lãnh tụ khác. Người là tấm gương sáng, trọn vẹn về nhân quyền và cuộc đấu tranh cho quyền con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta là: “1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”. Người luôn tâm niệm, nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, dân vẫn cứ đói, rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta do Người trực tiếp làm trưởng ban soạn thảo đã được Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946. Ngay trong lời nói đầu đã xác định: “bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Trong bản Hiến pháp năm 1946 đã giành cả chương II nói về “quyền lợi và nghĩa vụ công dân” gồm 18 điều cụ thể quy định các quyền dân sự, chính trị cũng như các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội…
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng hệ thống quyền con người ở nước ta ngày càng mở rộng và được quán triệt ngày càng đầy đủ trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1982, 1992 và năm 2013 cũng như trong chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề lớn, có nội dung phong phú, đặc sắc. Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc mà còn bao gồm cả quyền làm chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được pháp luật bảo vệ, quyền đi lại, quyền cư trú, quyền công dân, quyền hôn nhân và xây dựng gia đình, quyền sỡ hữu tài sản, quyền tư do tư tưởng, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Cả cuộc đời Người đấu tranh vì thực hiện quyền con người.


Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2018

BIỂN ĐÔNG- ĐIỂM NÓNG TRONG HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH ASEAN LẦN THỨ 32 Ở SINGAPORE

BIÊN SOẠN : PHẠM MINH TRÍ( CN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ)
DỊCH: MỸ ÂU




Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ triệu tập Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 32 tại Singapore vào ngày 28 tháng 4. Nhà ngoại giao đã nhận được bản dự thảo của hai tài liệu chính sách quan trọng được đưa ra vào cuối hội nghị: các nhà lãnh đạo ASEAN Tầm nhìn cho một ASEAN bền vững và sáng tạo và bản thảo không của Tuyên bố Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 32 của Chủ tịch.
Tuyên bố về Tầm nhìn của Nhà lãnh đạo là một tài liệu dài chín trang được chia thành phần mở đầu và năm phần có chứa 37 điểm.
Lời mở đầu bao gồm 10 nguyên tắc chính “sẽ nhấn mạnh tầm nhìn và cam kết tập thể của chúng ta để xây dựng một ASEAN bền vững và sáng tạo trong năm 2018 và xa hơn nữa.” Điểm hai đề cập đến một trật tự dựa trên nguyên tắc và tuyên bố, “ASEAN sẽ thúc đẩy luật pháp và duy trì thứ tự khu vực dựa trên quy tắc, được neo đậu theo luật và định mức quốc tế. ”
Điểm thứ ba đề cập đến hòa bình và an ninh nói chung và tập trung đặc biệt vào vũ khí hạt nhân, không liên quan đến các vấn đề nội bộ của các nước thành viên ASEAN và các vấn đề hàng hải. Điểm ba là "hợp tác hàng hải được tăng cường phù hợp với các hiệp ước và nguyên tắc được quốc tế chấp nhận, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), ràng buộc các quốc gia thành viên (nhấn mạnh thêm)."
Biển Đông được đề cập sau phần mở đầu trong phần đầu tiên đề cập đến hòa bình và an ninh. Điểm 5, Quy tắc ứng xử ở Biển Đông, đọc: “Làm việc tích cực hướng tới việc kết thúc một Quy tắc ứng xử hiệu quả ở Biển Đông”. Đó là tham khảo duy nhất trong Tuyên bố của các nhà lãnh đạo đối với Biển Đông.
Kết quả hình ảnh cho HỘI NGHỊ asean lần thứ 32


Khi đối mặt với nó Biển Đông không phải là một vấn đề gây tranh cãi hay thậm chí là bức xúc. Nhưng Tuyên bố Không Soạn thảo của Chủ tịch kể một câu chuyện khác và tiết lộ những vết nứt nội bộ của ASEAN.
Tuyên bố Không Soạn thảo được chia thành bốn phần chính, Phân phối quan trọng, Quan hệ đối ngoại của ASEAN, Các vấn đề và phát triển khu vực và quốc tế và các vấn đề khác. Trong số 25 điểm trong Bản nháp không, bảy điểm được dành cho Biển Đông.
Lời mở đầu liên tiếp gián tiếp trên Biển Đông. Ở đây dự thảo cho rằng các nhà lãnh đạo ASEAN tái khẳng định “sự tôn trọng đầy đủ các quy trình pháp lý và ngoại giao, mà không phải sử dụng các mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, phù hợp với các nguyên tắc quốc tế được công nhận của luật quốc tế” bao gồm UNCLOS 1982.
Kể từ Giải thưởng Tòa án trọng tài năm 2016 trong vụ kiện do Philippines đưa ra chống lại Trung Quốc, ASEAN đã sử dụng “quy trình pháp lý và ngoại giao” để ám chỉ Tòa án trọng tài. Biểu hiện này đã được đưa ra khỏi phần trên Biển Đông và chuyển sang khai mạc tuyên bố của Chủ tịch ASEAN để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó.
Bản nháp của Tuyên bố của Chủ tịch được xem xét bởi The Diplomat đã được chú thích bằng các biện pháp can thiệp của các quốc gia thành viên cho thấy sự ủng hộ, từ chối, hoặc các nhận xét khác về từ ngữ. Bảy điểm liên quan đến Biển Đông, ví dụ có 17 chú thích từ sáu thành viên của ASEAN.
Campuchia đứng đầu danh sách với bảy can thiệp hoặc gần 44 phần trăm tổng số tiếp theo là Philippines với ba can thiệp, Malaysia và Việt Nam với hai can thiệp, và Indonesia và Singapore chỉ có một sự can thiệp. Không có ý kiến ​​của Brunei, Lào, Myanmar, hoặc Thái Lan.
Kết quả hình ảnh cho HỘI NGHỊ asean lần thứ 32

Trong số bảy điểm liên quan đến Biển Đông, chỉ có ba, điểm 14, 19 và 20, bị bỏ rơi.
Điểm 14, dài nhất để giải quyết Biển Đông, phần lớn lặp lại chính sách ASEAN trước đây. Điểm 14 tái khẳng định tầm quan trọng của tự do hàng hải, thực hiện đầy đủ Tuyên bố ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC), và “nhiệt liệt hoan nghênh hợp tác cải tiến giữa ASEAN và Trung Quốc, và được khuyến khích bởi sự khởi đầu chính thức của các cuộc đàm phán quan trọng đối với kết luận ban đầu của một COC hiệu quả (Quy tắc ứng xử) trên một tiến trình được hai bên thống nhất. ”
Nó cũng hoan nghênh các biện pháp thiết thực như đường dây nóng giữa các bộ ngoại giao Trung Quốc và các thành viên ASEAN, và việc vận hành Bộ luật cho các cuộc gặp gỡ chưa được khai thác trên biển (CUES).
Điểm 14 "lưu ý những lo ngại của một số lãnh đạo về cải tạo đất đai và các hoạt động trong khu vực, đã làm xói mòn lòng tin và niềm tin, tăng căng thẳng và có thể làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực." Báo cáo của ASEAN.
Cuối cùng, điểm 14 “nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phi quân sự và tự kiềm chế trong việc thực hiện tất cả các hoạt động của nguyên đơn và tất cả các quốc gia khác, bao gồm cả những người được đề cập trong DOC có thể làm phức tạp thêm tình hình và leo thang căng thẳng ở Biển Đông. DOC đề cập đến các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc.
Điểm 15 đề cập đến “các cuộc thảo luận thẳng thắn” trên Biển Đông và bày tỏ mối quan ngại nghiêm trọng “về những phát triển gần đây và liên tục, bao gồm quy mô lớn / tất cả cải tạo đất đai và quân sự hóa trong khu vực.” Campuchia và Malaysia yêu cầu xóa các chữ in nghiêng.
Trong câu sau, Philippines yêu cầu chèn các từ in nghiêng: “Chúng tôi lưu ý những lo ngại nghiêm trọng của một số Bộ trưởng về cải tạo đất đai và leo thang các hoạt động trong khu vực, xây dựng đảo lớn , xây dựng tiền đồn và triển khai tài sản quân sự trong các khu vực tranh chấp… ”Campuchia chuyển sang giữ lại từ ngữ gốc. Nói cách khác, Campuchia tìm cách hạ thấp ngôn ngữ.
Điểm 16 tái khẳng định “tầm quan trọng của việc duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải trong và trên chuyến bay trên Biển Nam Trung Hoa.” Campuchia truy vấn an toàn từ và tuyên bố sẽ quay trở lại điểm đó.
Điểm 16 tiếp theo được gọi là “tôn trọng đầy đủ các quy trình pháp lý và ngoại giao.” Campuchia kêu gọi từ ngữ này bị xóa, trong khi Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam kêu gọi giữ lại. Nếu từ ngữ này được giữ lại, nó sẽ đại diện cho một sự thay đổi trong chính sách ASEAN và liên kết các tranh chấp Biển Đông với quá trình trọng tài, nếu chỉ gián tiếp.
Ở điểm 17, Campuchia đã truy vấn các từ sau bằng chữ in nghiêng và tuyên bố sẽ quay lại: “Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phi quân sự và tự kiềm chế trong việc thực hiện các hoạt động, bao gồm cải tạo đất có thể làm phức tạp hơn nữa tình hình và tranh chấp hoặc leo thang ở Biển Đông. ”Campuchia cho rằng ASEAN không có vai trò trực tiếp và tranh chấp nên được giải quyết song phương.
Philippines và Việt Nam yêu cầu các từ in nghiêng được chèn vào văn bản như sau: “Chúng tôi đã nêu rõ cam kết của ASEAN đối với việc tôn trọng đầy đủ các quy trình pháp lý và ngoại giao. Về vấn đề này, chúng tôi hoan nghênh việc ban hành phán quyết 12/7 của Tòa án trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS . ”Sự can thiệp của Philippines là đáng chú ý vì Tổng thống Duterte tuyên bố ông sẽ không báo chí Trung Quốc về việc thực hiện Giải thưởng. Sự hỗ trợ của Việt Nam cho việc đưa vào từ ngữ này được đặc trưng là gây tranh cãi trong một giao tiếp riêng tư với tác giả của một người quan sát đầy đủ thông tin.
Kết quả hình ảnh cho HỘI NGHỊ asean lần thứ 32

Cuối cùng, Campuchia đã truy vấn toàn bộ điểm 18 và tuyên bố sẽ quay trở lại. Điểm 18 trong dự thảo lần đọc, “Chúng tôi nhấn mạnh sự khẩn cấp để tăng cường các nỗ lực để đạt được tiến bộ đáng kể hơn trong việc thực hiện DOC toàn bộ, đặc biệt là Điều 4 và 5 cũng như các cuộc đàm phán nội dung cho kết luận sớm của COC. và dòng thời gian của COC. ”
Điều 4 kêu gọi giải quyết các tranh chấp lãnh thổ bằng các phương tiện hòa bình mà không có khu nghỉ mát đe dọa lực lượng thông qua các cuộc tham vấn và đàm phán của các bên liên quan trực tiếp trên cơ sở pháp luật quốc tế và UNCLOS.
Điều 5 kêu gọi các bên thực hiện tự kiềm chế trong các hoạt động “làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định…”
Điểm 19 và 20 của bản nháp không được kiểm duyệt. Điểm 19 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lòng tin và các biện pháp phòng ngừa trong quá trình thực hiện DOC “toàn bộ” và “sớm chấp nhận COC hiệu quả”.
Điểm 20 nhắc lại sự cần thiết phải thiết lập đường dây nóng giữa các bộ đối ngoại để đối phó với tình trạng khẩn cấp hàng hải và hoan nghênh việc thông qua tuyên bố chung về việc tuân thủ CUES.
Campuchia từ lâu đã lập luận rằng các tranh chấp hàng hải ở Biển Đông không phải là vấn đề đối với ASEAN vì chúng là các tranh chấp song phương. Campuchia không có quan tâm trực tiếp đến các vấn đề Biển Nam Trung Hoa nhưng nó đã nhiều lần can thiệp vào một trong hai nước hoặc ngăn chặn bất kỳ từ ngữ nào mà Trung Quốc có thể phản đối. Đáng chú ý nhất trong năm 2012, Campuchia đã ngăn ASEAN phát hành một tuyên bố chung vì nó phản đối từ ngữ của phần trên Biển Đông.
Việc rò rỉ Bản thảo của Chủ tịch Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 32 cung cấp đường cơ sở để phân tích Tuyên bố của Chủ tịch ASEAN cuối cùng khi được ban hành vào ngày 28 tháng 4 và xác định mức độ Campuchia tiếp tục hoạt động như một con ngựa thả cho Trung Quốc.
ASEAN vẫn phải đối mặt với một tình trạng khó xử lớn. Nó liên tục duy trì một trật tự khu vực dựa trên các quy tắc và luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS. Tuy nhiên, ASEAN là do dự để có bất kỳ hành động mà sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Trung Quốc. Giải thưởng của Tòa án trọng tài hiện là một phần của luật trường hợp quốc tế. ASEAN đã chọn để ngồi trên hàng rào, do đó khuyến khích cuộc thi tiếp tục giữa các cường quốc hàng hải chấp nhận giải thưởng và Trung Quốc, mà đặt trên luật pháp quốc tế.

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2018

TRỌNG TÂM CỦA LÝ LUẬN ĐẶNG TIỂU BÌNH LÀ GÌ ?

TÁC GIẢ: PHẠM MINH TRÍ( CN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ)
dịch từ tạp chí đại học Hoa Nam, TS. CHU GIANG DƯƠNG.




LÝ LUẬN ĐẶNG TIỂU BÌNH: là chuỗi tư tưởng chính trị và kinh tế đầu tiên được phát triển bởi nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu BìnhLý thuyết này không tuyên bố từ chối chủ nghĩa Mác - Lênin hay Tư tưởng Mao Trạch Đông mà thay vào đó tìm cách thích nghi chúng với các điều kiện kinh tế xã hội hiện có của Trung Quốc. 
Đặng Tiểu Bình cũng nhấn mạnh việc mở Trung Quốc ra thế giới bên ngoài, việc thực hiện một quốc gia, hai hệ thống , và thông qua cụm từ " tìm kiếm sự thật từ thực tế ", một sự ủng hộ chủ nghĩa thực dụng chính trị và kinh tế.
Một trong những câu châm ngôn nổi tiếng nhất của Đặng Tiểu Bình, có từ những năm trước Cách mạng Văn hóa , nói rằng " Không quan trọng một con mèo có màu đen hay trắng, miễn là nó bắt chuột ."  Nói cách khác, anh không lo lắng quá nhiều về việc liệu một người có phải là một nhà cách mạng hay không, miễn là anh ta hoặc cô ta có hiệu quả và có khả năng thực hiện công việc theo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.  (Tuyên bố này phản đối các ý tưởng của cuộc đấu tranh lớp học được đưa vào các quan hệ kinh tế, sau này được mô tả trong một cụm từ "một chiếc tàu xã hội chủ nghĩa đến với sự chậm trễ là tốt hơn so với chủ nghĩa tư bản đến đúng giờ"). Mặc dù Đặng Tiểu Bình đã nói điều này sớm hơn nhiều, vào tháng 7 năm 1962 tại hội nghị liên đoàn thanh niên Cộng sản, nó thường được diễn giải sau này để biện minh cho các phương tiện phát triển tiếp theo của Trung Quốc ngay cả khi các phương tiện có vẻ không phải là tối ưu nhất. 
Hình ảnh có liên quan
CT ĐẶNG TIỂU BÌNH( 1904-1997)
NHỮNG NÉT TƯ TƯỞNG MỚI CỦA CT ĐẶNG TIỂU BÌNH
Việc ứng dụng và thay đổi một cách độc đáo chủ nghĩa Mác về quá trình xây dưng LLSX cho phù hợp với QHSX của Trung Quốc Đại Lục đã làm cho ông Đặng trở thành một nhà lý luận của Trung Quốc.  Nhiệm vụ phải đối mặt bởi ông Đặng là gấp đôi: để thúc đẩy hiện đại hóa trong khi vẫn giữ sự hiệp nhất tư tưởng của CPC( ĐCSTQ) và kiểm soát của quá trình khó khăn của cải cách.
Các nỗ lực hiện đại hóa đã được khái quát hóa bằng khái niệm Bốn hiện đại hóa . Bốn hiện đại hóa là những mục tiêu, được đặt ra bởi Chu Ân Lai vào năm 1963, để cải thiện nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, và khoa học và công nghệ ở Trung Quốc.
Để duy trì sự thống nhất ý thức hệ, Lý thuyết Đặng Tiểu Bình đã hình thành "Bốn nguyên tắc Hồng y" mà Đảng Cộng sản phải duy trì, cụ thể là,
  • Nâng cao tinh thần cơ bản của chủ nghĩa cộng sản
  • Thúc đẩy hệ thống chính trị  dân chủ nhân dân
  • Nâng cao sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
  • Tăng cường chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Mao Trạch Đông

Kể từ những năm 1980, lý thuyết đã trở thành một lớp đại học bắt buộc. Đã từng là hướng dẫn chính sách chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) kể từ Đại hội lần thứ III của Quốc hội khóa XIII năm 1978, lý thuyết đã được gắn vào Hiến pháp Trung Quốc như một tư tưởng chỉ đạo năm 1997, và sau đó cũng được viết vào Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa :
Vì Hội nghị thứ ba của Uỷ ban Trung ương CPC lần thứ 11, Cộng sản Trung Quốc, đại diện chủ yếu là đồng chí Đặng Tiểu Bình, đã tóm tắt cả những kinh nghiệm tích cực và tiêu cực thu được từ khi thành lập Trung Quốc mới, thực hiện nguyên tắc giải phóng tâm trí và tìm kiếm sự thật từ sự kiện, chuyển trọng tâm của công việc của Đảng sang phát triển kinh tế, giới thiệu cải cách và mở cửa, mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển của nguyên nhân xã hội chủ nghĩa, dần hình thành dòng, nguyên tắc và chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội với đặc điểm Trung Quốc, giải quyết các vấn đề cơ bản liên quan đến việc xây dựng, củng cố và phát triển chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc và tạo ra Lý thuyết Đặng Tiểu Bình.Đặng Tiểu Bình Lý thuyết là một sản phẩm của sự tích hợp lý thuyết cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với việc thực hành Trung Quốc hiện đại và đặc điểm của thời đại hiện tại, sự thừa kế và phát triển Tư tưởng Mao Trạch Đông trong điều kiện lịch sử mới, một giai đoạn mới của sự phát triển chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc, chủ nghĩa Mác của Trung Quốc hiện đại, và sự kết tinh của sự khôn ngoan tập thể của CPC, hướng dẫn nguyên nhân của hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đều đặn

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2018

ĐÔI LỜI CÙNG LUATKHOA.ORG: ' MỌI ĐỨC TIN MÙ QUÁNG ĐIỀU LÀ TAI HẠI" BERTRAND RUSSELL

DẪN NGUỒN TỪ " http://sachhiem.net/SACHNGOAI/snL/LeDonBan/LDB14.php"
ĐÔI LỜI CÙNG LUATKHOA.ORG " https://www.luatkhoa.org/2018/04/cam-can-ton-giao-dau-chinh-dau-ta/ " 



Bertrand Russell
Có phải Tôn giáo đã làm được những Đóng góp Hữu ích cho Văn minh không?
Hình ảnh có liên quan
MỌI ĐỨC TIN MÙ QUÁNG ĐIỀU LÀ TAI HẠI
Quan điểm riêng của tôi về tôn giáo là của Lucretius. Tôi xem nó như một bệnh tật sinh ra từ sợ hãi, và như một nguồn của khốn khổ không kể hết được của loài người. Tuy nhiên tôi không thể phủ nhận rằng nó đã làm được một vài đóng góp cho văn minh. Nó đã giúp, trong những ngày đầu của lịch sử, vào việc chữa lịch, và nó là nguyên nhân khiến những nhà tu Egypt đã ghi chép những thiên thực theo năm tháng với cẩn thận đến mức sau cùng họ đã trở nên có thể đoán trước được chúng. Hai dịch vụ đóng góp này tôi sẵn sàng để thừa nhận, nhưng tôi không biết có những đóng góp nào khác.
Ngày nay, từ ‘tôn giáo’ được dùng trong một ý hướng rất lỏng lẻo. Một số người, dưới ảnh hưởng của đạo Phản Thệ cực đoan, dùng từ này để nói về bất kỳ những xác tín cá nhân nghiêm trọng nào về phần đạo đức hay bản chất của vũ trụ. Việc dùng này của từ thì hoàn toàn không có tính lịch sử. Tôn giáo chủ yếu là một hiện tượng xã hội. Những hội Nhà thờ có thể nợ nguồn gốc của chúng với những người thầy sáng lập vốn có những xác tín cá nhân mạnh mẽ, nhưng những người thày này đã hiếm khi có nhiều ảnh hưởng đến những hội nhà thờ mà họ đã sáng lập, trong khi những hội nhà thờ đã có nhiều ảnh hưởng to lớn vào những cộng đồng trong đó chúng đã phát triển. Để lấy trường hợp vốn đáng chú ý nhất với những người trong văn minh phương Tây: sự giảng dạy của Christ, như nó đã xuất hiện trong những sách ghi chép cuộc đời của Christ , đã có liên hệ ít ỏi hết sức khác thường với luân lý của những người Kitô. Điều quan trọng nhất về đạo Kitô, theo quan điểm xã hội và lịch sử, không phải là Christ, nhưng là Hội Nhà thờ, và nếu chúng ta có phán đoán đạo Kitô như một sức mạnh xã hội, chúng ta phải đừng đi đến những sách ghi chép về đời Jesus để làm tài liệu cho chúng ta. Jesus đã dạy rằng bạn nên đem của cải của mình cho người nghèo, rằng bạn không nên đánh trả, rằng bạn không nên đi nhà thờ  , và bạn không nên trừng phạt sự ngoại tình. Cả những người Catô lẫn những người Phản thệ đều đã không cho thấy có mong muốn mạnh mẽ nào để tuân theo lời dạy của ông trong một bất kỳ nào của những phương diện này. Một số người trong dòng tu Franciscan, quả thực, đã cố gắng để dạy một giáo lý về sự nghèo khó của những học trò đầu tiên của Jesus, nhưng vua Chiên đã lên án họ, và học thuyết của họ đã bị tuyên bố là ‘sai lạc với giáo lý chính thức’  (của hội nhà thờ). Hay, lại nữa, hãy xem xét một câu văn, loại như ‘Chớ phán xét, để đừng bị phán xét’ và tự hỏi bạn một câu văn loại như thế đã có ảnh hưởng gì với những Toà án Pháp hình của hội nhà thờ Kitô  và tổ chức Ku Klux Klan.
Điều gì đúng với đạo Kitô thì cũng đúng ngang thế với đạo Phật. Phật thì hòa nhã thân ái và đã giác ngộ; trên giường bệnh sắp chết của mình, ông đã cười những học trò của mình, vì họ giả định rằng ông thì không chết. Tuy nhiên, chế độ thày tu của đạo Phật – như nó có mặt, lấy thí dụ, ở Tibet – đã là ngu dân, chuyên chế và nghiệt ngã trong mức độ cao nhất.
Không có gì là ngẫu nhiên về sự khác biệt này, giữa một hội nhà thờ và người sáng lập của nó. Ngay khi ‘sự thực tuyệt đối’ được cho là đã chứa đựng trong những lời nói của một người nào đó, liền lập tức có một tập đoàn gồm những người thành thạo, chuyên để diễn giải những lời nói của người này, và những người chuyên môn này ‘không thể sai’ đòi được có quyền lực, vì họ đã giữ chìa khóa mở chân lý. Giống như bất kỳ giai cấp đặc quyền nào khác, họ dùng quyền lực của họ cho những ưu thế của riêng họ. Tuy nhiên về một phương diện, họ còn tệ hơn bất kỳ giai cấp đặc quyền nào khác, vì đó là công việc của họ để diễn giải chi tiết một sự thật không thay đổi, đã một lần được ‘vén lên cho thấy’ vĩnh viễn trong hoàn hảo tột bực, như thế khiến họ tất yếu trở thành những đối thủ của tất cả mọi tiến bộ trí tuệ và đạo đức. Hội Nhà thờ chống lại Galileo và Darwin; Trong thời chúng ta, nó chống lại Freud. Trong những thời, nó có sức mạnh to lớn nhất, nó đã đi còn xa hơn trong sự chống đối của nó với đời sống tri thức. Vua chiên Gregory the Great đã viết cho một thày chăn chiên trông coi hàng tỉnh nào đó một lá thư, bắt đầu: "Một báo cáo đã đến với ta mà ta không thể nhắc đến mà không nóng mặt, rằng ngươi đã giải thích cặn kẽ ngữ pháp cho một số người bạn.” Nhà chăn chiên cao cấp này bị thẩm quyền của vua chiên buộc phải chấm dứt cố gắng xấu xa này, và văn học Latinh đã không hồi phục cho đến tận thời Phục hưng. Rằng tôn giáo thì gây hại hiểm độc không chỉ về tri thức mà cũng về đạo đức nữa. Ý tôi về điều này là nó dạy những quy luật luân lý vốn không đưa đến thành quả hạnh phúc cho con người. Một vài năm trước đây, tại Germany, khi đang tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý về việc liệu những dòng dõi hoàng tộc bị truất phế có vẫn được phép giữ những tài sản họ đã coi là của riêng hay không, những hội nhà thờ ở Germany đã chính thức tuyên bố rằng nếu tước đi quyền này của họ sẽ là điều trái với sự giảng dạy của đạo Kitô. Những hội nhà thờ, như mọi người đều biết, đã chống lại việc bãi bỏ chế độ nô lệ mãi cho đến tận khi họ vẫn còn dám làm thế, và với một vài trường hợp ngoại lệ vẫn được quảng cáo là tốt đẹp, trong thời nay, họ phản đối mọi phong trào nào hướng tới sự bình đẳng kinh tế. Vua chiên đã chính thức lên án chủ nghĩa Xã hội.
Kết quả hình ảnh cho danh ngôn bertrand russell

Đạo Kitô và Tình Dục
Tuy nhiên, đặc tính tồi tệ nhất của đạo Kitô là thái độ của nó đối với tình dục – một thái độ quá bệnh hoạn và quá phản tự nhiên khiến chỉ có thể hiểu được khi đặt nó trong tương quan với sự tật nguyền đau ốm của thế giới văn minh vào thời Đế Quốc Rome đã đang mục rữa. Đôi khi chúng ta nghe nói đến tác động khiến tư tưởng Kitô đã cải thiện thân phận của phụ nữ. Đây là một trong những sự xuyên tạc thô bỉ trắng trợn nhất của lịch sử mà nó có thể làm được. Phụ nữ không thể được hưởng một địa vị có thể chấp nhận được trong xã hội, khi trong đó điều được xem là cực kỳ quan trọng rằng họ phải không nên vi phạm một hệ thống quy luật đạo đức rất cứng rắn. Những nhà tu đã luôn luôn xem người Nữ chủ yếu như ‘giống Cái cám dỗ’; Họ đã nghĩ về Nàng chính yếu như người khơi dậy những thèm khát dục tình tội lỗi. Sự giảng dạy của hội nhà thờ, đã và vẫn là, trinh tiết là tốt nhất, nhưng hôn nhân thì được phép cho những ai là người thấy điều này không thể giữ nổi. “Tốt hơn để kết hôn thay vì để bị đốt”, như thánh chiên Paul đã nói. Bằng cách làm hôn nhân không thể hủy bỏ được, và bằng cách dập tắt mọi kiến thức về ars amandi  , hội Nhà thờ đã làm những gì nó có thể làm, để bảo đảm rằng hình thức quan hệ tình dục duy nhất, vốn nó cho phép, nên gồm rất ít vui thú và thật nhiều đau đớn. Việc chống đối sự ngừa thai, trong thực tế, có cùng động cơ: nếu một phụ nữ có một đứa con hàng năm cho đến khi nàng mòn mỏi chết đi, không thể giả định được rằng nàng sẽ nhận được nhiều vui thú từ đời sống lứa đôi của nàng; do đó sự ngừa thai phải làm cho thoái chí.
Khái niệm về Tội lỗi, vốn nó được buộc chặt với đạo đức Kitô, là một khái niệm gây một số lượng tai hại đặc biệt khác thường, vì nó có thể đem cho mọi người một khả năng tìm lối thoát cho chủ nghĩa bạo dâm của họ, vốn họ tin là chính đáng, và thậm chí là cao thượng. Chẳng hạn, hãy lấy ví dụ, về vấn đề phòng bệnh syphilis  . Được biết, bằng những biện pháp phòng ngừa trước, làm nguy cơ mắc bệnh này có thể trở thành không đáng kể. Tuy nhiên, những người Kitô phản đối việc phổ biến kiến ​​thức về sự kiện này, bởi vì họ chủ trương rằng những “kẻ tội lỗi” bị trừng phạt là điều tốt! Họ giữ ‘điều tốt’ này đến mức họ thậm chí còn sẵn lòng chấp nhận trừng phạt với cả những người vợ và con của “kẻ có tội”. Hiện có trên thế giới vào thời điểm này hàng nghìn trẻ em bị bệnh syphilis bẩm sinh, những người hẳn đã không bao giờ được ra đời, nhưng chỉ do ước muốn của những người Kitô để thấy những kẻ tội lỗi bị trừng phạt.  Tôi không thể hiểu được làm thế nào những giáo lý dẫn đến sự độc ác tàn bạo này lại có thể được xem là có bất kỳ tác động tốt nào trên đạo đức.
Những Phản đối với Tôn giáo
Những phản đối với tôn giáo có hai loại – trí tuệ và đạo đức. Sự phản đối về trí tuệ là rằng không có lý do nào để giả định bất kỳ một tôn giáo nào là đúng ; sự phản đối về đạo đức là rằng những giới luật tôn giáo ra đời từ một thời khi con người đã độc ác hơn họ hiện nay, và do đó có khuynh hướng làm tồn tại mãi mãi những điều phi nhân vốn lương tâm đạo đức của thời đại tất đã vượt qua, nếu như đã không có khuynh hướng như thế.
Để nói về sự phản đối trí thức ​​trước tiên: trong thời đại thực tiễn của chúng ta có một khuynh hướng nhất định nào đó cho rằng đừng bận tâm về liệu giảng dạy tôn giáo thì đúng hay không, vì câu hỏi quan trọng là liệu nó thì có ích hay không. Tuy nhiên, một câu hỏi không thể được quyết định cho khéo, nếu không với một câu hỏi khác. Nếu chúng ta tin vào đạo Kitô, những khái niệm của chúng ta về những gì là tốt lành sẽ khác với những gì chúng sẽ là, nếu chúng ta không tin vào nó. Do đó, đối với những người Kitô, những ảnh hưởng của đạo Kitô có thể có vẻ tốt, trong khi đối với những người không tin tưởng, chúng có vẻ xấu. Hơn nữa, thái độ mà một người phải nên tin một mệnh đề như vậy và như vậy, độc lập với câu hỏi liệu có chứng cớ nào để ủng hộ nó không, là một thái độ tạo thù địch với bằng chứng, và khiến chúng ta đóng chặt não thức của chúng ta với mọi sự kiện không vừa vặn với tiên kiến của chúng ta.
Một loại nhất định nào đó của óc vô tư khoa học là một phẩm tính rất quan trọng, và nó là một loại vốn khó có thể có được trong một ai là người tưởng tượng rằng có những sự vật việc vốn nhiệm vụ của người ấy là để tin tưởng chúng. Do đó, chúng ta không thể quyết định liệu tôn giáo có làm được gì tốt hay không mà không cần điều tra vấn đề liệu tôn giáo thì đúng hay không.
Hồn người và sự bất tử
Sự nhấn mạnh của đạo Kitô về hồn người cá thể đã có một ảnh hưởng sâu xa trên luân lý của những cộng đồng người Kitô. Nó là một học thuyết có nền tảng cơ bản gần gũi với của những triết gia phái Stoics, nổi lên như của họ đã nổi lên trong những cộng đồng thôi không còn có thể ấp ủ những hoài bão chính trị. Động lực tự nhiên của cá nhân mạnh mẽ có nhân cách tử tế là cố gắng để làm tốt, nhưng nếu người này bị tước hết mọi quyền lực chính trị và mọi cơ hội để ảnh hưởng vào những gì xảy ra, người này sẽ bị đẩy lệch hướng ra khỏi tiến trình tự nhiên của mình, và sẽ quyết định rằng điều quan trọng là để  tốt. Đây là những gì đã xảy ra với những người Kitô đầu tiên; nó đã dẫn đến một khái niệm về sự thánh thiện cá nhân như một gì đó hoàn toàn độc lập với hành động đem lại ích lợi, vì sự thánh thiện phải là một gì đó có thể đạt đến được bởi những người bất lực trong hành động. Vì thế đức hạnh xã hội đã bị loại trừ khỏi đạo đức của đạo Kitô. Cho đến ngày nay, những người Kitô thường nghĩ rằng một người ngoại tình thì xấu xa hơn một người làm chính trị nhận hối lộ, mặc dù người sau có thể gây nhiều tổn hại gấp nghìn lần.
Những người (thực dân) Spaniards (xâm lăng) ở Mexico và Peru đã thường làm phép ‘rửa tội’ cho những trẻ sơ sinh dân bản địa America và sau đó ngay lập tức đập vỡ óc chúng ra: bằng cách này họ bảo đảm rằng những trẻ sơ sinh này đã lên Thiên Đàng.  Không một người Kitô chính thống nào có thể tìm thấy bất kỳ lý do hợp lý nào để lên án hành động này của họ, mặc dù tất cả ngày nay đều làm như vậy. Trong vô số cách thức, học thuyết về sự bất tử cá nhân dưới dạng Kitô của nó đã có những ảnh hưởng thảm khốc cho đạo đức, và sự tách rời siêu hình của hồn người và thân xác đã có những ảnh hưởng thảm hại cho triết học.
Kết quả hình ảnh cho danh ngôn bertrand russell

Những nguồn gốc của sự không khoan dung
Sự không khoan dung, thù hận lan rộng khắp thế giới với sự xuất hiện của đạo Kitô là một trong những đặc điểm đáng thắc mắc nhất, theo tôi nghĩ, là đến từ niềm tin của người Jew về tính đạo hạnh chính trực và về thực tại độc nhất của Gót Jew. Tại sao người Jew đã có những khác thường này thì tôi không biết. Chúng dường như đã phát triển trong thời gian dân Jew lưu vong như một phản ứng chống lại nỗ lực để thu hút người Jew vào những nhóm người ngoài.  Tuy nhiên, những người Jew, và đặc biệt là những tiên tri, đã phát minh ra sự nhấn mạnh vào tính đạo hạnh chính trực cá nhân và ý tưởng rằng nó là xấu xa để khoan dung bất cứ tôn giáo nào ngoại trừ một. Hai ý tưởng này đã có một tác động thảm khốc bất thường vào lịch sử phương Tây.
Học thuyết về Ý chí Tự do
Thái độ của những người Kitô về vấn đề luật của Tự nhiên đã từng là dao động và không chắc chắn đến gây tò mò thắc mắc. Một mặt, đã có một học thuyết về ý chí tự do, phần lớn những người Kitô tin vào nó; và học thuyết này đã đòi hỏi rằng những hành vi của con người, ít nhất sẽ không phải tuân theo luật của Tự nhiên. Mặt khác, đặc biệt trong thế kỷ thứ XVIII và XIX, đã có một tin tưởng vào Gót như Đấng Ban Luật và vào luật tự nhiên như một trong những bằng chứng chính cho sự hiện hữu của một đấng SángTạo. Trong thời gian gần đây, sự chống đối với sự cai quản của luật tự nhiên, vì mục đích bảo vệ cho ý chí tự do, đã bắt đầu được cảm nhận mạnh mẽ hơn sự tin tưởng vào luật tự nhiên như bằng chứng có thể dành cho một Đấng Ban Luật.
Những nhà Duy vật đã dùng những định luật của vật lý để cho thấy, hay cố gắng cho thấy, rằng những chuyển động của cơ thể con người đều tất định về cơ học, và rằng hệ quả là tất cả mọi sự vật việc chúng ta nói và mọi thay đổi về vị trí chúng ta có tác động, đều nằm ngoài phạm vi của bất kỳ ý chí tự do nào nếu có thể có được. Nếu điều này là như vậy, bất cứ sự vật việc gì may ra có thể còn lại cho những khả năng ý chí không bị giam giữ của chúng ta thì có giá trị ít ỏi. Nếu, khi một người viết một bài thơ hay phạm tội giết người, những động tác cơ thể liên quan đến hành động của người này chỉ do những nguyên nhân vật chất, có vẻ như phi lý để dựng một bức tượng cho người này trong một trường hợp và để treo cổ người này trong trường hợp kia. Có thể trong những hệ thống siêu hình nhất định nào đó, vẫn còn có một khu vực của suy tưởng thuần túy, trong đó ý chí sẽ là tự do; Nhưng vì rằng chỉ có thể truyền thông đến người khác bằng những phương tiện của động tác thân xác, vương quốc của tự do tất sẽ là một lĩnh vực có thể không bao giờ là đối tượng của truyền thông, và có thể không bao giờ có bất kỳ quan trọng xã hội nào.

SỰ TÁC ĐỘNG CỦA (FDI) ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM QUAN TRỌNG NHƯ THẾ NÀO ?

TÁC GIẢ: PHẠM MINH TRÍ( CN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ)



Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng một vai trò quan trọng trong việc xúc tác phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và hội nhập kinh tế của nó vào bối cảnh toàn cầu kể từ khi nó bắt đầu chuyển sang mô hình định hướng thị trường cách đây ba thập kỷ. Hạn chế giảm bớt cho các nhà đầu tư nước ngoài khuyến khích huy động vốn nước ngoài đáng kể vào nền kinh tế chiến lược. Các nhà đầu tư bị thu hút vào tiềm năng to lớn chưa được khai thác của Việt Nam hứa hẹn lợi nhuận cao, cùng với lực lượng lao động rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên cao. Một sự thay đổi địa chấn trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam từ nông nghiệp sang ngành công nghiệp, kể từ khi cải cách kinh tế Đổi Mới năm 1986 đã thúc đẩy một phong trào lớn lao động từ ngành này sang ngành khác, khuyến khích sự xuất hiện của các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước.
Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007 đánh dấu một bước ngoặt khác, giúp dẫn tới mức tăng gần gấp ba lần FDI trong năm đó so với mức năm 2006. Các dòng vốn tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành sản xuất theo định hướng xuất khẩu chính của Việt Nam, giúp ổn định nền kinh tế, mang lại lạm phát tràn lan dưới sự kiểm soát và nâng cao mức sống. Được coi là một trong những con hổ kinh tế mới của Đông Á, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh thứ hai trên đầu người trên toàn thế giới kể từ năm 1990, chỉ sau Trung Quốc. Sự gia tăng doanh thu của chính phủ thông qua xuất khẩu mạnh mẽ và thu nhập hộ gia đình trung bình cao hơn đã cho phép phát triển xã hội biến đổi trong hai thập kỷ qua. Đáng chú ý, tỷ lệ người sống dưới mức chuẩn nghèo quốc gia đã giảm mạnh, và tiếp cận với y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng cơ bản đã được cải thiện đáng kể,
Các ngành công nghiệp thâm dụng lao động của Việt Nam, cụ thể là các lĩnh vực sản xuất và chế biến cho đến nay là những người hưởng lợi lớn nhất từ ​​FDI. Lao động giá rẻ có lợi thế giảm dần, tuy nhiên, ngày càng trở nên yếu hơn như một người lái xe tăng trưởng. Duy trì tăng trưởng ở giai đoạn phát triển tiên tiến đòi hỏi một mô hình mới dựa trên nâng cao năng suất và tạo ra công ăn việc làm có giá trị cao hơn. Xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào các sản phẩm giá trị gia tăng thấp so với Trung Quốc và các nước ASEAN khác (Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan). Thông qua việc mua lại công nghệ tiên tiến vào các khu vực có giá trị gia tăng cao, chính phủ đặt mục tiêu đa dạng hóa nền kinh tế và duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm 6,5% –7,5% bằng cách thúc đẩy tổng năng suất nhân tố - về cơ bản là hiệu quả của lao động và vốn đầu vào kết hợp.  
Thu hút FDI vào các hoạt động giá trị gia tăng cao là không thể thiếu đối với tầm nhìn của chính phủ về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các cấp độ mới, với mục tiêu đầy tham vọng cuối cùng là phá vỡ bẫy thu nhập trung bình. Năm nay, FDI dự kiến ​​chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu; ước tính sơ bộ cho thấy xuất khẩu chiếm 93,6% GDP năm 2016. Với mục tiêu chính trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm mới nhất của Chính phủ cho giai đoạn 2016-2020, thúc đẩy mức FDI trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như cao Các dự án công nghệ và thân thiện với môi trường sẽ rất quan trọng để đạt được mục tiêu xã hội và môi trường, bao gồm mở rộng bảo hiểm y tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ nghèo, mở rộng khả năng tiếp cận với nước sạch ở nông thôn và thành thị.
Kết quả hình ảnh cho KINH TẾ VIỆT NAM

Triển vọng thu hút thêm FDI vào các hoạt động có giá trị gia tăng cao
Trong một nỗ lực để thu hút FDI vào các khu vực có giá trị gia tăng cao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phối hợp với Ngân hàng Thế giới, hiện đang soạn thảo một chiến lược FDI 5 năm mới cho giai đoạn 2018-2023. Mục tiêu chính của chiến lược là thu hút đầu tư nhiều hơn vào các ngành công nghiệp công nghệ cao so với các ngành chuyên sâu và tập trung vào chất lượng đầu tư vào bốn lĩnh vực ưu tiên: sản xuất, dịch vụ, nông nghiệp và du lịch. Hơn nữa, việc tăng cường năng lực của các doanh nghiệp địa phương sẽ rất quan trọng để tạo điều kiện cho các mối liên kết với các công ty nước ngoài và tăng cường sự tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong thời gian tới, ưu tiên cho các ngành có ít cơ hội cạnh tranh hơn, bao gồm sản xuất thiết bị ô tô và vận tải, và phát triển các công nghệ thân thiện với môi trường (bảo tồn nguồn nước và năng lượng mặt trời và gió). Về lâu dài, trọng tâm sẽ tập trung vào việc nâng cao kỹ năng sản xuất dược phẩm và thiết bị y tế, giáo dục, y tế, dịch vụ tài chính, Fintech và lĩnh vực CNTT. Ưu đãi đầu tư đang được thiết kế để thu hút vốn vào các khu vực có tiềm năng cao trong các lĩnh vực này, như vùng Tây Ngyuen.
Sự thúc đẩy của chính phủ để mở rộng tự do hóa thương mại và đầu tư thông qua các hiệp định thương mại tự do cũng sẽ giúp thúc đẩy và hợp lý hóa đầu tư từ các đối tác, như giảm thuế quan làm cho xuất khẩu dễ tiếp cận hơn. Trong số các hiệp định thương mại đáng chú ý bao gồm một hiệp định với EU và một hiệp định khác về Hợp tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). RCEP là thỏa thuận giữa mười quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và sáu cường quốc châu Á - Thái Bình Dương (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và New Zealand). Việt Nam đang cố gắng đa dạng hóa không chỉ loại hình đầu tư nước ngoài, mà còn là đối tác từ nơi có nguồn vốn FDI, đặc biệt là từ bên ngoài châu Á.
Kết quả hình ảnh cho KINH TẾ VIỆT NAM

Chính sách FDI tại Việt Nam: Thiếu hụt và cơ hội
Gần đây, đã có một sự thay đổi trong sở thích của các công ty đa quốc gia để di dời các hoạt động từ Trung Quốc sang Việt Nam, vì lợi thế chi phí lao động thấp của Việt Nam - không chỉ ở Trung Quốc mà còn cả các nước khác trong khu vực như Thái Lan và Philippines. bộ máy điều tiết phức tạp. Các ưu đãi về thuế và tài chính ngày càng thuận lợi của Việt Nam đã làm cho nó trở thành một điểm nóng cho sản xuất với chi phí thấp. Tuy nhiên, lợi thế lao động rẻ của nó đã làm giảm lợi nhuận cho một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển ban đầu và cần phải tái cấu trúc lại các ngành có giá trị gia tăng cao.
Nuôi dưỡng lực lượng lao động có tay nghề cao sẽ là yếu tố quan trọng để thu hút FDI vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, một trong những thiếu hụt chính của Việt Nam về thu hút FDI vào các khu vực có giá trị cao là thiếu công nhân lành nghề. Về vấn đề này, nó đi xa phía sau Trung Quốc, Singapore, Malaysia và Thái Lan. Các báo cáo cho thấy một khoảng cách kỹ năng cấp tính khi các công ty quốc tế trong lĩnh vực kỹ thuật, chuyên nghiệp và quản lý tìm thấy sự không phù hợp về kỹ năng cần thiết và của các công nhân Việt Nam. Một khuôn khổ cho phát triển kỹ năng và đào tạo công nhân phù hợp với tầm nhìn dài hạn của nền kinh tế sẽ là điều cần thiết để thu hút FDI vào các ngành công nghiệp công nghệ cao.
Việt Nam là điểm đến hấp dẫn thứ hai đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong số các nước ASEAN trong năm 2016, thua Singapore để giành vị trí dẫn đầu. Môi trường kinh doanh của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, đẩy nước này lên vị trí thứ 68 trong tổng số 190 báo cáo “Dễ làm kinh doanh” của Ngân hàng Thế giới năm 2018, một bước nhảy vọt từ mức xếp hạng 82 chỉ một năm trước. Trong khi các bước tiến đã được thực hiện trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và điện, đồng thời tăng cường hệ thống thuế và các thủ tục thực thi hợp đồng, xếp hạng của Việt Nam cũng thấp hơn mức của Singapore. Việt Nam đứng sau Singapore trong mọi thể loại của chỉ số, báo hiệu sự cần thiết phải tiến bộ nhanh hơn trong các lĩnh vực này để làm cho nó trở thành một nam châm lớn hơn để thu hút FDI.
Một môi trường cấp phép phức tạp và không rõ ràng, cùng với tham nhũng, tiếp tục cản trở đầu tư, giúp giải thích thứ hạng thấp của Việt Nam trong việc khởi nghiệp. Đây là những lĩnh vực chính của cải tiến; những người khác bao gồm cải thiện giao dịch qua biên giới, bảo vệ các nhà đầu tư thiểu số và giải quyết khả năng thanh toán. Giải quyết những vấn đề này, cùng với việc nâng cao lực lượng lao động trong bối cảnh mở rộng tự do hóa thương mại và đầu tư sẽ là yếu tố quan trọng để thu hút dòng vốn FDI cao hơn và giữ cho nền kinh tế đi đúng hướng để đạt được tầm nhìn dài hạn.
Triển vọng kinh tế Việt Nam
Một sự gia tăng trong dòng vốn đầu tư nước ngoài - lên đến 33,09 tỷ USD trong mười một tháng đầu năm - đang giữ cho nền kinh tế trên một con đường mở rộng mạnh mẽ. Các báo cáo chỉ ra rằng các lĩnh vực chế biến và sản xuất là những người hưởng lợi lớn nhất từ ​​các dòng vốn. Tháng 11 ghi nhận một tháng tăng trưởng sản xuất công nghiệp hàng năm xuất sắc, đạt mức cao nhất trong gần ba năm, do một bước nhảy vọt trong sản lượng sản xuất. Mặt khác, ngành khai thác mỏ và khai thác đá đã ký hợp đồng vào tháng 11 sau khi mở rộng lần đầu tiên trong 22 tháng trong tháng 10, khi sự suy thoái trong ngành dầu khí vẫn tồn tại. Tìm cách nâng cao năng suất tổng thể và đa dạng hóa nền kinh tế từ các ngành công nghiệp thâm dụng lao động sang các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư của Việt Nam hiện đang xây dựng chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài mới (FDI) cho giai đoạn 2018-2023, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới. Chiến lược này sẽ đặc biệt nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp công nghệ cao.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế dự kiến ​​sẽ tăng trưởng mạnh mẽ vào năm tới, nhờ vào sự mở rộng kỷ lục về dòng vốn FDI và hiệu suất xuất khẩu mạnh mẽ. Một ngành ngân hàng yếu kém, bị lôi kéo bởi sự gia tăng nhanh chóng của các khoản vay không thực hiện, và sự bùng nổ liên tục trong tín dụng khu vực tư nhân tiếp tục là những rủi ro giảm xuống đối với sự ổn định tài chính, tuy nhiên. Những người tham gia hội thảo FocusEconomics mong đợi nền kinh tế sẽ mở rộng 6,5% vào năm 2018, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo của tháng trước và 6,6% vào năm 2019.

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI LÀ GÌ ?

TÁC GIẢ: NGUYỄN VĨNH HẰNG 
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).





Chính sách đối ngoại của một quốc gia là tập hợp các chiến lược mà quốc gia đó sử dụng trong quá trình tương tác với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế, trên cách lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa – xã hội, nhằm đạt được những mục tiêu khác nhau phù hợp với lợi ích của quốc gia đó. Chính sách đối ngoại thường được coi là cánh tay nối dài của chính sách đối nội, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, đạt được sự thịnh vượng về kinh tế, hay bảo vệ và tối đa hóa lợi ích quốc gia nói chung, thông qua các con đường như hợp tác, cạnh tranh, xung đột, hoặc thậm chí chiến tranh. Vai trò của chính sách đối ngoại ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, khi không quốc gia nào có thể tồn tại biệt lập và sự giao lưu, hợp tác ngày càng được chú trọng.
Chính sách đối ngoại của một quốc gia thường được hoạch định bởi bộ máy chính phủ cao nhất của quốc gia. Mỗi quốc gia khác nhau, mỗi thể chế chính trị khác nhau lại có cách cấu tạo bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại khác nhau.
Kết quả hình ảnh cho chính sách đối ngoại là gì

Nhìn chung, các nhân tố chủ chốt quyết định chính sách đối ngoại của một quốc gia bao gồm:
  • Thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế;
  • Tình hình chính trị và an ninh thế giới;
  • Mục tiêu quốc gia mong muốn đạt được;
  • Ảnh hưởng của bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại; và
  • Các nhân tố chính trị nội bộ (các nhóm lợi ích, giới truyển thông, công luận,…)
Chính sách đối ngoại của các nước lớn trên thế giới, hoặc của các cường quốc trong khu vực luôn được các quốc gia khác trong khu vực đó và trên thế giới quan tâm nghiên cứu đặc biệt, bởi chính sách của các nước này không chỉ liên quan đến lợi ích của các quốc gia riêng lẻ, mà còn có khả năng tác động rất lớn đến tình hình hòa bình, ổn định và phát triển của cả khu vực hoặc toàn thế giới. Chẳng hạn như chính sách đối ngoại của Mỹ luôn gây ảnh hưởng tới tình hình chính trị toàn cầu. Việc Mỹ tiến hành chiến tranh chống khủng bố ở Iraq và Afghanistan không chỉ được xem là chính sách riêng của các quốc gia này, mà còn tác động tới môi trường an ninh, chính trị, ngoại giao toàn cầu.
Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, nhiều vấn đề đối nội đang có tác động lan tỏa ra ngoài biên giới quốc gia, các chính sách đối nội vì vậy cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động đối ngoại và quan hệ ngoại giao của quốc gia này đối với các quốc gia khác, chẳng hạn như các chính sách về kinh tế, đầu tư, nhập cư,… Đồng thời, việc hoạch định chính sách đối ngoại ngày nay ở các quốc gia cũng đang chịu tác động ngày càng lớn của các yếu tố chính trị nội bộ như dư luận công chúng, hoạt động vận động hành lang của các nhóm lợi ích, hay ảnh hưởng của giới truyền thông.
Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách Đổi mới từ cuối những năm 1980, Việt Nam đã thi hành chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế. Chính sách đối ngoại Việt Nam vì vậy đang nhằm thực hiện phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.”
Theo đó, Việt Nam đã chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ. Trong đó Việt Nam ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Chính sách đối ngoại Việt Nam vì vậy đã phục vụ đắc lực cho việc duy trì môi trường hòa bình ổn định ở khu vực, tạo điều kiện cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế trong nước, góp phần không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong những thập kỷ vừa qua.