TÁC GIẢ: PHẠM MINH TRÍ, VƯƠNG QUỐC BẢO. (CN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ)
NGUỒN: GIÁO TRÌNH QUYỀN CON NGƯỜI- QUYỀN CÔNG DÂN.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIỚI HẠN QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN.
Quyền con người – “nhân quyền” – là một trong những thuật ngữ phổ biến nhất hiện nay trên thế giới và cả ở Việt Nam. Nó phổ biến không chỉ bởi vì được nhắc đến nhiều trong khoa học, những tranh luận chính trị hay thực tiễn, mà còn bởi nhân quyền là một giá trị phổ quát. Tính phổ quát của nội hàm thuật ngữ này vừa xuất phát từ thuộc tính tự nhiên vốn có của con người, đồng thời được khẳng định bởi những văn kiện pháp lý mang chính chất nền tảng của pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc 1945 , Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người 1948 , Công ước quốc tế về các quyền chính trị dân sự 1966 (ICCPR), Tuyên bố Vienna về quyền con người 1993 và Tuyên bố Bangkok 1993….
Tuy vậy, trong nhận thức và thực thi nhân quyền vẫn được coi là vấn đề khó và “nhạy cảm” trong quan hệ cả quốc gia và quốc tế. Khó là bởi vì trên thực tế, khó có thể đưa ra những tiêu chuẩn chung mang tính chất bắt buộc hay cưỡng chế cho một quốc gia cụ thể. Còn nhạy cảm là bởi, như theo nhận định của nhà nghiên cứu Phan Nhật Thanh “nó liên quan trực tiếp đến quan hệ quốc tế, chủ quyền quốc gia và quyền của các thành viên trong xã hội. Nó nhạy cảm, đặc biệt đối với châu Á và châu Phi, vì khái niệm này không xuất phát từ nền tảng văn hóa, kinh tế và chính trị - xã hội của các quốc gia này. Và nó nhạy cảm vì có sự khác biệt về nhận thức giữa phương Đông và phương Tây và thậm chí, trong cùng một khu vực địa lý”.
Tính nhạy cảm của vấn đề cũng thể hiện ở nhận thức và thực thi quyền con người trong mối tương quan với việc tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi lẽ, không chỉ liên quan đến vấn đề nhân quyền, mà việc nhận thức về nguồn gốc, chức năng, bản chất của nhà nước, phương thức tổ chức quyền lực cũng còn khá khác nhau, nhất là trong các xã hội với các truyền thống, tư tưởng và văn hóa khác nhau.
Lần đầu tiên vào năm 1993 tại Hội nghị nhân quyền Vienna, nhiều quốc gia châu Á đã đưa ra thuật ngữ “Giá trị châu Á” để biểu đạt nhận thức về nhân quyền.
Liên quan đến nhân tố thứ tư “tính tổ chức”, theo các học giả trên, các quốc gia châu Á quan niệm nhà nước và xã hội là một thực thể không thể tách rời và do đó những cá nhân hay tổ chức mang quyền lực chính trị là phải quản lý lợi ích chung cho toàn xã hội. Và, nhà nước phải có trách nhiệm ban hành pháp luật để bảo vệ lợi ích của tất cả mọi người. Cũng theo các giá trị đó, nếu phương Tây thiên về tự do cá nhân, theo chủ nghĩa tự do cá nhân, chủ nghĩa cá nhân thì phương Đông theo chủ nghĩa cộng đồng. Giá trị châu Á khác giá trị phương Tây bởi tinh thần cộng đồng, với phương Đông thì gia đình và cộng đồng là hạt nhân của đời sống xã hội…
Còn nhiều điểu tranh luận với “Giá trị châu Á”, tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, là một quốc gia, dân tộc mang đậm màu sắc của truyền thống văn hóa Á Đông, vấn đề quyền con người ở nước ta đã, đang có những nhận thức cũng khác nhau và cũng có khác so với các giá trị phương Tây. Nhưng cũng cần phải nhận thấy một xu hướng rằng, dưới tác động của những tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa, sự trao đổi văn hóa, giá trị, vấn đề nhận thức về nhân quyền con người ở Việt Nam hiện nay cũng như ở nhiều quốc gia châu Á cũng đang có những hòa hợp, giao thoa với nhận thức phương Tây về nhân quyền.
Hiến pháp mới của Việt Nam 2013 là một minh chứng cho sự hòa hợp và giao thoa ấy. Trong toàn bộ nội dung của chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã khẳng định rõ nhận thức về quyền con người. Không chỉ ở nhận thức về sự tách bạch giữa quyền con người, quyền công dân, mà còn bởi ở cả nội dung ở mỗi quyền đã có sự phù hợp nhất định với các tiêu chuẩn, quy định của Luật nhân quyền quốc tế. Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia vào ngày càng nhiều hơn các điều ước quốc tế về quyền con người, cùng với những nỗ lực cải cách bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị,.. đã và đang minh chứng cho sự giao thoa với nhận thức về quyền con người.
Nói như vậy không có nghĩa, Việt Nam hay các nước phương Đông đã xích lại gần với các tiêu chuẩn nhân quyền của phương Tây. Cần phải khẳng định chính xác rằng, việc nhận thức về nhân quyền theo các tiêu chuẩn của Luật nhân quyền quốc tế là các giá trị chung, nhận thức của toàn thể nhân loại. Đó không phải là giá trị mang tính chính trị, tư tưởng hay khu vực mà là kết tinh của giá trị loài người, là sự công nhận tính phổ quát, sự hòa hợp của các nhận thức, định kiến và giá trị có tính chất khu vực. Đó là nhận thức, và gía trị và tiếng nói chung của toàn nhân loại.
Vì lẽ đó, khi bàn về những vấn đề lý luận của nhân quyền, tác giả bày tỏ sự nhất trí cao độ với những quan điểm, cách hiểu theo các điều ước quốc tế được coi là nguồn của Luật nhân quyền quốc tế hiện.
Dù đã ghi nhận một cách rõ ràng và đầy đủ các quyền cơ bản phổ biến của con người, tuy nhiên, trong các quy định của Luật nhân quyền quốc tế lại chưa ghi nhận một cách chính thức khái niệm “Quyền con người”, chính vì lẽ đó, trong cả lý luận và thực tiễn cũng đưa ra nhiều quan niệm về nhân quyền – quyền con người.
Một trong những khái niệm được coi là phổ biến về Quyền con người là khái niệm được đưa ra bởi Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc. Theo đó, “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”.
Một định nghĩa khác cũng khá phổ biến, là: “Quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người”.
Dù không nêu rõ khái niệm quyền con người, nhưng trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng đã nêu lên nhận thức chung về quyền con người. Theo đó, “Những chân lý sau đây đã được chúng tôi công nhận như những sự thật hiển nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng; tạo hóa đã cho họ các quyền không thể thay thế được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Trong Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác giả định nghĩa quyền con người là: “Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”.
Như vậy, dù còn có nhiều quan điểm về quyền con người, nhưng có thể tựu chung lại ở mấy điểm sau:
- quyền con người là những khả năng, sự được phép của con người;
- quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có của mỗi con người;
- quyền con người không do ban phát hay cho phép mà nhà nước có nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
2. Nhận thức về quyền công dân
Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, không nên phân biệt quyền con người và quyền công dân, bởi lẽ không thể có công dân mà không phải là con người. Cái gì con người có thì công dân cũng có và ngược lại, bao gồm cả quyền. Xét về mặt sinh học, đúng là như vậy. Thực tế tất cả đều là con người không phụ thuộc vào việc có hay không cá nhân đó qui chế công dân hay không có qui chế công dân. Ý kiến này càng có căn cứ hơn khi xuất hiện những khái niệm mới như “công dân toàn cầu”, “công dân điện tử”…
Tuy nhiên, dưới góc độ quyền, việc phân biệt quyền con người, quyền công dân có ý nghĩa chính trị, dân sự rất quan trọng và đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa để thiết lập cơ chế hữu hiệu, phù hợp đảm bảo thực hiện các quyền của các công dân khi các công dân đó phải thực hiện nghĩa vụ đối với quốc gia mà người đó là thành viên.
Theo qui ước chung trên thế giới hiện nay, quyền con người mang bản chất tự nhiên và mỗi cá nhân có được các quyền đó kể từ khi được sinh ra. Thực hiện quyền con người được giới hạn bởi thực hiện các quyền của người khác. Trong khi đó, quyền công dân lại gắn liền với việc có được qui chế công dân của một nhà nước. Quyền công dân là những khả năng, sự được phép (bổ sung) mà nhà nước với tư cách là tổ chức mà cá nhân đó là thành viên trao cho cá nhân đó như là “phần thưởng” (khả năng bổ sung) tương xứng cho việc người đó phải thực hiện những trách nhiệm, nghĩa vụ trước nhà nước. Vì vậy, quyền công dân của mỗi cá nhân là không giống nhau ở mọi quốc gia và tùy vào điều kiện của mỗi nhà nước, quyền công dân được ghi nhận, tôn trọng và đảm bảo thực thi là không giống nhau.
Các đặc điểm của quyền con người
- Quyền con người từ góc độ đạo đức – tôn giáo: Quyền con người bắt nguồn từ các quan niệm về chuẩn mực đạo đức, các đối xử giữa người với người trong xã hội. Các giá trị đạo đức có thể tìm thấy trong học thuyết của các tôn giáo. Các ý tưởng về quyền con người trở thành những quy phạm đạo đức – tôn giáo, đề cao và cổ vũ tình yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm. Có thể nói quá trình phát triển của quyền con người luôn phản ánh và mang nặng dấu ấn của các giá trị và quy tắc đạo đức, tôn giáo.
- Quyền con người từ góc độ lịch sử - xã hội: Nhìn từ góc độ lịch sử - xã hội, quyền con người bắt nguồn từ các quan hệ xã hội, là kết quả và phụ thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội loài người tồn tại những quan niệm khác nhau về các quyền, tự do và nghĩa vụ, cũng như những quy phạm và cơ chế khác nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó. Theo đó, quyền con người ngày càng mở rộng, từ ý niệm, tư tưởng đến các quy tắc, quy phạm và cơ chế; từ cấp độ cộng đồng đến cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Vì thế, quyền con người luôn mang những dấu ấn về chính trị, kinh tế, văn hoá của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của xã hội loài người.
- Quyền con người từ góc độ triết học: Sự hình thành và phát triển của quyền con người phản ánh quy luật phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao và phản ánh quy luật tiến hoá trong nhận thức và hành động của con người về khái niệm sơ khai nhất về tự do, công bằng, bình đẳng. Những tư tưởng triết học về quyền con người là nền tảng pháp lý cho việc pháp điển hóa các quyền con người vào pháp luật quốc gia và quốc tế, cũng như việc bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế.
- Quyền con người từ góc độ chính trị: Quyền con người là vấn đề ảnh hưởng, chi phối quan hệ chính trị cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Quyền con người trở thành một trong các chủ đề trung tâm trong các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia.
- Quyền con người từ góc độ pháp lý: Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất với tất cả các chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy, quyền con người gắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù pháp lý.
b) Các thuộc tính cơ bản của quyền con người
- Tính phổ biến: Con người dù ở quốc gia, dân tộc khác nhau nhưng quyền con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân.
- Tính không thể tước đoạt: Quyền con người không thể tùy tiện bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, trừ trường hợp được pháp luật quy định và lý do tước đoạt là hành vi vi phạm pháp luật của người bị tước đoạt (Ví dụ: tù nhân bị giam do thực hiện hành vi phạm tội).
- Tính không thể phân chia: Quyền con người là phạm trù tổng hợp gồm các quyền và tự do của con người vốn quan trọng như nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xã hội khác nhau mà một số quyền con người được ưu tiên thực hiện hoặc được chú ý bảo vệ hơn.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Các quyền con người cụ thể không thể tồn tại một cách biệt lập, đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác.
4. Ý nghĩa của việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay
Việc bảo vệ và đảm bảo thực thi quyền con người ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi các lý do sau đây:
- Việt Nam đã xây dựng một bản Hiến pháp mới – Hiến pháp 2013. Dù, theo một số chuyên gia, vẫn còn đôi chỗ chưa đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế về tổ chức quyền lực, về nhân quyền, nhưng, theo tác giả, đây là bản Hiến pháp tiến bộ nhất trong số các bản hiến pháp trong lịch sử của nước ta liên quan đến vấn đề nhân quyền. Lần đầu tiên, Hiến pháp ghi nhận và công nhận nhân quyền (quyền con người) như là một hiện tượng mang tính chất, nguồn gốc tự nhiên. Quyền con người đã được ghi nhận một cách trang trọng, và ở mức độ nào đó đã tách bạch được những quyền cơ bản con người với quyền của công dân như là thành viên của một nhà nước. Trong bối cảnh Hiến pháp mới vững những qui định hết sức tiến bộ về nhân quyền như vậy, việc triển khai, xây dựng các cơ chế để bảo vệ, bảo đảm và hiện thực hóa các quyền ấy trên cuộc sống trở nên vô cùng cấp bách và có ý nghĩa để chứng minh năng lực thực chất của Hiến pháp (Điều mà thường hay bị nghi ngờ trong quá khứ và thực thiễn pháp lý của Việt Nam) và quan trọng hơn là nó sẽ góp phần khẳng định bản chất thực sự và sứ mệnh thực sự của chính quyền là chính quyền được tổ chức và hoạt động tất cả là vì mục tiêu con người.
- Việt Nam đã lựa chọn con đường hội nhập và phát triển. Đó là sự lựa chọn đúng đắn và sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. Trong tiến trình hội nhập ấy, cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam cũng tiếp xúc nhiều xu hướng mang tính tất yếu, khách quan. Trong các xu hướng đó có xu hướng dân chủ, tự do, nhân quyền và pháp quyền. Đây không phải là mưu đồ chính trị mà là các xu hướng mang tính chất qui luật khách quan của cuộc sống hiện đại. Ở đâu có dân chủ, nhân quyền, tự do và pháp quyền ở đó có có sự giải phóng con người, giải phóng sức lao động và sức sang tạo vô biên của mỗi cá nhân. Dù ở bất cứ tiến trình nào, nơi nào đảm bảo được những yếu tố trên nơi đó đảm bảo chiến thắng trong mọi cuộc cạnh tranh khốc liệt trong tiến trình toàn cầu hóa.
- Người dân Việt Nam đã nếm trải mọi đau thương của chiến tranh, mọi đói khổ, tụt hậu của cơ chế bao cấp. Và hơn hết, người dân Việt Nam hiện nay, nhờ công cuộc đổi mới bền bỉ gần 30 năm qua của Đảng và Nhà nước, đã có những nhận thức, đổi mới tư duy mạnh mẽ trong vấn đề nhân quyền. Chính vì lẽ đó, sẽ vô cùng khó khăn và sẽ gặp những lực cản vô cùng lớn ngay từ trong nước nếu đất nước đóng cửa nhằm hạn chế nhân quyền. Nhân dân Việt Nam đã và sẽ luôn sát cánh cùng Đảng, Nhà nước trong công cuộc đổi mới, luôn thấu hiểu những khó khăn mà đất nước ta đã gặp phải, luôn sẵn sàng chấp nhận hi sinh quyền lợi cá nhân vì hiểu rằng đất nước còn nhiều việc phải làm, còn phải giải quyết nhiều vấn đề và hơn hết là tư duy vì cộng đồng, quốc gia dân tộc. Nhưng, sẽ là không chấp nhận được nếu bản thân chính quyền không muốn hội nhập với thế giới, đóng cửa và từng bước tụt hậu.
- Việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người hiện nay ở Việt Nam có ý nghĩa vô cùng to lớn bởi điều đó đã và đang đi đúng theo những chủ trương, định hướng, đường lối trong chiến lược tổng thể và từng bước đổi mới của Đảng và Nhà nước. Chính vì lẽ đó, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân nhận được sự đồng thuận mạnh mẽ từ chủ trương của Đảng và nhân dân. Đó là động lực to lớn góp phần tạo đồng thuận, gắn kết và phát triển xã hội, nhất là trong bối cảnh có nhiều thế lực thù địch luôn tìm kiếm những cớ, hay cơ hội trong lĩnh vực nhân quyền để gây áp lực quốc tế và gây bất ổn xã hội.
- Mục tiêu bảo vệ và bảo đảm quyền con người sẽ góp phần thúc đẩy các cuộc cải cách ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong cải cách thể chế, pháp luật và kinh tế. Với việc đặt trọng tâm vào việc bảo vệ con người, quyền và nhân phẩm của họ, các cuộc cải cách đó sẽ có được định hướng cơ bản hay, nói một cách chính xác hơn, là có được trọng tâm, cơ sở tư tưởng mang tính chất xuyên suốt đảm bảo cho các cuộc cải cách đó thành công.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét